(*)Tiêu đề của chủ blogBachViet -trích đăng lại nội dung bài viết có tiêu đề "Vì bản chất dân tộc Việt?" của tác gỉa Lữ Giang (Lugiangblog
ngày 21/91/2912). Nhận thấy tác giả có cách nhìn khá sâu sắc và độc đáo
trên cơ sở kết hợp kinh nghiệm sống của bản thân với tài liệu nghiên
cứu nước ngoài . Tuy nội dung bài viết chủ yếu đề cập về cộng đồng người Việt định cư tại Hoa kỳ nhưng cũng tương tự và bổ ích đối với cộng đồng người Việt Nam nói chung để tham khảo, đúng như ý định của tác giả ở phần mở đầu: "Nhân
ngày đầu năm, chúng ta thử xem bản chất thực sự của người Việt như thế
nào theo những cách nhìn khác nhau, để từ đó loại bỏ cái xấu và xây đắp
những cái tốt, đưa dân tộc đi lên".
NGƯỜI MỸ NHẬN XẾT VỀ NGƯỜI VIỆT
Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American Institute for Social
Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính căn bản của người
Việt, xin tạm dịch như sau:
1.- Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn.
2.- Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt.
3.- Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng các thành phẩm của mình.
4.- Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát huy được xu hướng nào thành những nguyên lý.
5.- Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít khi học sự việc từ
đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản. Ngoài ra,
người Việt không học vì lợi ích của kiến thức (lúc nhỏ học vì gia đình,
lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt).
[when small, they study because of their families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs]
6. Cởi mở và hiếu khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài.
7. Tiết kiệm, nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa (vì sĩ diện hay muốn phô trương).
[to save face or to show off].
8.- Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu trong những tình
huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc tính này
ít khi có.
9.- Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng thường không thẳng
thắn vì những lý do lặt vặt, vì thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì
lợi ích của những mục tiêu nhỏ.
10.- Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh (một
người có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3
người làm thì hỏng việc).
[one person can complete a task excellently; 2 people do it poorly, and 3 people make a mess of it].
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã hiểu rất rõ người
Việt. Tại sao người Việt lại có những đặc tính như thế này?
NGƯỜI XƯA CŨNG ĐÃ NHẬN RA
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ Việt Nam Sử Lược, ấn
hành lần đầu tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính
của người Việt và những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa số người
Việt lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Trong phạm vi một
bài báo, chúng tôi chỉ xin trích lại dưới đây một số đoạn chính ông viết
về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm
gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi
mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa,
chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu
phương ngôn: «Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!»
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như
thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”
“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy
dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm,
nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn
minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng
phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu.
Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu
ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch
được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về
việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “Kết Quả của Thời Bắc Thuộc”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất là về đời nhà
Chu thì cái học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như là Nho
giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà
Đường, những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền
sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó
trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông
chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương
tự như nhau cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên Tàu, thì đất Giao
châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo
ấy. Về sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm,
như là đạo Phật thì thịnh về đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo
Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và tông giáo mà ra. Mà
người mình đã theo học thuật và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng
noi theo Tàu hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém Tàu, mà
tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất
sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao?
...
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở
của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên
trí rằng cái gì đã học của Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng
cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt
chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ
văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái kém,
không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người
ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của người mình như
thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và việc gì
cũng phải thua kém người ta vậy.”
Đọc cuốn “Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố
(1894 - 1954), chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn của người Tàu mà
người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào. Ông vốn là
một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ thi hương dưới triều Nguyễn, nên đã
phản ánh một cách trung thực những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên
sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường
tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng.
“TRƯỚC LÀ ĐẸP MẶT SAU LÀ ẤM THÂN”
Nước Việt Nam bị Pháp đô hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung
Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại
nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan,
hôn, tang, tế mà cuộc Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch,
nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”.
Bài tục giao sau đây vẫn còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam:
Con ơi! muốn nên thân người
Lắng tay nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân
Bây giờ người con gái không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con
trai không còn chỉ “đọc sách ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực
của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau
là ấm thân”.
Trong nước, tiêu chuẩn của cuộc sống là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi,
có con đi du học ngoại quốc... Tiêu chuẩn ở hải ngoại cũng thế thôi: Đi
dâu cũng nghe khoe nhà trên cả triệu bạc, xe loại sang trọng nhất, con
đang học bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư... Gần như không nghe ai khoe những công
trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng và đất
nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ấm
thân”.
Với mục tiêu như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi nhìn ra phố Bolsa,
thủ đô của VNCH nối dài, đa số các cơ sở kinh doanh lớn đều không phải
của người Việt. Tuy bên ngoài người Việt gốc Hoa đứng tên, nhưng đàng
sau là các bang hội của Tàu. Thương xá Phúc Lộc Thọ vốn được coi là
“Quốc Hội VNCH” ở Bolsa, nhưng phía trước là tượng các danh nhân Trung
Hoa và tên thương xá được viết vừa bằng chữ Tàu vừa bằng chữ Việt.
Houston cũng thế thôi.
Nếu mỗi gia đình và mỗi cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục
tiêu của cuộc sống và truyền từ đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng
và đất nước với ngóc đầu lên được.
NHÌN QUA NGƯỜI HOA (định cư tại Hoa kỳ)
Trong khi người Việt nhiễm văn hoá Trung Quốc đã trở thành như đã nói
trên, người Hoa khi ra hải ngoại lại thích ứng rất nhanh nên vươn lên
khá nhanh và khá cao. Những đặc tính của người Hoa ở hải ngoại được mô
tả như sau:
1.- Cần cù, việc gì cũng làm
2.- Tiết kiệm, không sống khoe khoang hay xa hoa.
3.- Khởi sự từ buôn bán nhỏ.
4.- Đơn vị kinh tế gia đình: Gia trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản có thể truyền từ đời nọ sang đới kia.
5.- Hình thành những xí nghiệp không theo một hình thức chặt chẽ, không
theo những quy luật nhất định, tất cả đều dựa vào chữ TÍN.
6.- Không làm những công việc có tính cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ
thích kinh doanh vào những lãnh vực đơn giản. Khi cần làm ăn lớn thường
chia ra làm nhiều công ty con.
7.- Móc nối với chính quyền và cá nhân khác rất giỏi. Không tham gia
chính quyền hay đảng phái nào, nhưng thường nắm được các nhân vật có địa
vị quan trọng có thể bao che hay hổ trợ cho làm ăn.
(Tại Indonesia, người Hoa chỉ chiếm từ 3% đến 4% dân số, nhưng làm chủ
70% tài sản ở đất nước này với khoảng 160 trong số 200 xí nghiệp lớn của
Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe Liong, làm chủ xí nghiệp Salim với số
vốn khoảng 9 tỷ mỹ kim, nhờ quen biết lớn với Suharto).
8.- Không thích tranh tụng, kiện cáo. Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng chạm hay bị bắt vì vi phạm luật pháp.
9.- Phạm vi hoạt động gần như không biên giới.
9.- Thích ứng rất nhanh với những biến đổi của thời cuộc.
Trong bài “Mạng lưới kinh tế của người Hoa hải ngoại”, ông Phạm Văn Tuấn
đã nhận thấy như sau về các hoạt động kinh doanh của người Hoa ở hải
ngoại:
“Khi bắt đầu bước vào ngành thương mại, các người Hoa hải ngoại đã nhận
được sự giúp đỡ từ các nhóm, các bang hay các cộng đồng của họ. Các hội
tương trợ này được tổ chức căn cứ vào gia đình, hay nguồn gốc địa
phương, hay thổ ngữ, chẳng hạn như các bang người Hẹ, Quảng Đông, Triều
Châu, Phúc Kiến. Các hội hay các bang này đã hoạt động như một thứ ngân
hàng nhờ đó người Hoa có thể mượn tiền, trao đổi tin tức, tuyển mộ nhân
công, giới thiệu thương nghiệp, hay thương lượng các dịch vụ. Người Hoa
hải ngoại thường tôn trọng chữ Tín, họ làm ăn bằng ước hẹn miệng và sự
tin cẩn lẫn nhau, và họ không cần phải ký kết các văn bản, các giao kèo.
Nếu một thương gia nào vi phạm lời hứa, người đó sẽ không bị truy tố ra
pháp luật mà bị ghi vào sổ đen của các nhóm, các bang, đây là một tệ
hại hơn, vì tất cả mạng lưới làm ăn của các cộng đồng người Hoa đều sẽ
biết rõ sự việc, và việc kinh doanh của người vi phạm kể như bị chấm
dứt.”
Số vốn của người Hoa hiện đang sống ở ngoại quốc được ước lượng khoảng 4.000 tỷ USD.
QUAY LẠI NHÌN MÌNH (người Việt định cư tại Hoa kỳ)
Cuộc kiểm tra năm 2010 cho thấy ở Mỹ hiện nay người Hoa chiếm 1%, còn
người Việt là 0,5%, tức 1.548.449. Người Việt ở Cali là 581.946 nguời.
Tại Little Saigon ở Orange County, được coi thủ đô của VNCH nối dài,
thành trì chống cộng của thế giới tự do và tiền đồn chống cộng ở Đông
Nam Á, có đến 3 chính phủ và ba ban đại diện cộng đồng: Ba chính phủ là
chính phủ Nguyễn Hữu Chánh, chính phủ Đào Minh Quân và chính phủ Hồ Văn
Sinh (thay thế Nguyễn Bá Cẩn). Ba ban đại diện cộng đồng là cộng đồng
Nguyễn Xuân Vinh, cộng đồng Nguyễn Tấn Lạc và cộng đồng Nguyễn Xuân
Nghĩa. Cộng Đồng này đang chửi cộng đồng kia là tiếm danh.
Mặc dầu lực lượng hùng hậu như thế, nhưng khi nhóm VietWeekly chưa đến
10 người nổi lên ủng hộ Hà Nội giữa phố Little Saigon, chọc tức các đoàn
thể chống cộng và cộng đồng mà chẳng ai làm gì được. Trong khi đó, các
“chiến sĩ chống cộng” vẫn tiếp tục chụp mũ nhau không ngừng nghĩ trên
các diễn đàn.
Rất nhiều “nhân tài” của người Việt đang chuẩn bị ra tranh cử các chức
vụ dân cử tại địa phương, thành phố, tiểu bang và có thể liên bang,
trong cuộc bầu cử sắp đến. Mục tiêu được mô tả là để bảo vệ và nói lên
tiếng nói của cộng đồng.
Trái lại, chúng tôi không thấy có một tổ chức chính trị nào của người
Tàu hoạt động ở đây và không nghe nói họ sẽ đưa ai ra tranh cử.
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2004, lúc đó liên danh
George W. Bush đang tranh với liên danh John Kerry. Tôi có nhờ ông Tăng
Kiến Hoa dẫn đến gặp một vài bang trưởng Tàu xem họ bầu cho ai. Họ cười
và nói: Quy luật bầu cử là phù thịnh bất phù suy. Cứ thấy ai chắc thắng
là đóng tiền cho người đó, không cần biết đường lối họ như thế nào. Họ
đã nhận tiền là khi đắc cử họ sẽ giúp mình. Nếu hai người ngang ngữa,
đóng tiền cho cả hai. Tôi hỏi người Tàu không có ai ra tranh cử dân biểu
hay nghị sĩ gì sao. Họ cũng cười và nói: Người mình có vào được quốc
hội cũng chẳng làm được chuyện mình muốn. Cứ thấy người nào có thế lực
là đóng tiền cho người đó.
Thì ra người Tàu bầu cử bằng tiền chứ không phải bầu cử bằng phiếu như người Việt!
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử năm 2000, vì hai liên danh George W. Bush
và Albert A. Gore ngang ngữa, nên người Tàu đóng tiền cho cả hai. Tây An
Tự và Thiền Sư Thanh Hải ở Los Angeles đã đóng tiền cho liên danh Gore
nhưng lập danh sách giả những người góp tiền, bị đổ bể nên chúng ta mới
biết được.
Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh làm thay đổi nhân
loại như John V. Blankenbaker (phát minh ra máy vi tính 1971), Bill
Gates, Steve Jobs..., chúng ta chỉ mong người Việt biết quan tâm đến
cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn. Nhưng điều này quá khó. Đúng
như người Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những lý do vớ vẫn, có thể hy sinh những mục tiêu quan
trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn).
[sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức mạnh. Một người
có thể hoàn thành một nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người
làm thì hỏng việc!
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng mắc với quá khứ,
học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất nước đi vào
một hướng đi mới tốt đẹp hơn./.
Lữ Giang- Nguồn Blog Bách Việt
|