Tập thơ thiền Thi Vân Yên Tử bài thuốc giúp thanh lọc tâm hồn
NGUYỄN VŨ
Tập thơ thiền Thi Vân Yên Tử
bài thuốc giúp thanh lọc tâm hồn
Thi Vân Yên Tử
của nhà thơ Hoàng Quang Thuận là tập thơ thiền gồm 143 bài về Yên Tử
được viết một cách hệ thống và phong phú mang nhiều hàm ý sâu sa nhưng
lại được thể hiện qua những vần thơ thanh cao, huyền diệu, xa vắng, tĩnh
lặng đồng thời lại gần gũi với đời thường.
Tập thơ vẽ ra cho độc giả
những phong cảnh tuyệt mỹ của núi mây Yên Tử đồng thời soi rọi lại
những chặng đường vua Trần Nhân Tông đã đi qua để xây dựng nên Trung tâm
Thiền phái Trúc Lâm của Việt Nam. Ngoài ra, độc giả còn được tiếp cận
thiền học một cách tự nhiên, dễ dàng và sâu sắc.
Tình yêu dành cho
quê hương đất nước, đặc biệt là tâm thành hướng Phật của nhà thơ Hoàng
Quang Thuận xuyên suốt tập thơ. Thơ anh đã nhào nhuyễn vẻ đẹp tuyệt vời
của Yên Tử mà không bị trùng lặp hay mờ nhạt trước những bài thơ của các
tác giả khác về địa danh này.
Trong bài Cô chú thăm Yên Tử là những câu thơ thâm trầm với những sự chuyển động nhẹ nhàng tạo nên vẻ đẹp thanh tịnh của thiên nhiên:
Tùng già, đại cổ chốn Hoa Yên
Cô chú du vân chốn cõi thiền
Yên Tử non cao vời vợi gió
Xuân về mây lượn cảnh thần tiên.
Cảnh vật Yên Tử còn đẹp bởi sự cổ kính:
Viên gạch Hoa Cúc đời nhà Trần
Phù điêu sư tử sứ hoa vân
Vẫn ba gốc đại ngày xưa ấy
Bao năm xa cách vẫn thấy gần
(Danh Sơn Yên Tử)
Không
đi vào mô tả tỉ mỉ hình thể, màu sắc những viên gạch ra sao mà nhà thơ
Hoàng Quang Thuận chỉ gọi tên viên gạch Hoa Cúc đã đủ để độc giả tưởng
nhớ lại một sản phẩm tinh hoa của người Việt ta từ thời nhà Trần xa xưa.
Bên cạnh đó là cây đại 700 năm tuổi. Chỉ cần đưa ra những "vật liệu" ấy
đã đủ để nhà thơ Hoàng Quang Thuận "xây dựng" nên bài thơ cổ kính và
mang một âm hưởng thiêng liêng lạ kỳ. Thế đấy, đôi khi văn chương không
chỉ là sự chải chuốt về câu từ, mà còn cần sự tinh tế của nhà thơ trong
việc chọn lựa được chi tiết, đối tượng đắt để phản ánh.
Nói vậy,
không có nghĩa là Hoàng Quang Thuận chỉ mải miết đi tìm chi tiết khác lạ
mà quên đi câu từ. Ngược lại, anh vẫn ý thức xây dựng những câu thật
thơ, đầy hình ảnh nghệ thuật. Ví như, trong bài Đường rừng, đẹp biết bao hình ảnh:
Cổ thụ vươn cao xòe tán rộng
Rừng già nắng lọt đốm hoa rơi
Dây leo chằng chịt vắt cành lá
Chim rừng líu lót với hương trời.
Đường
lên Yên Tử bạt ngàn cây, những vòm lá đan nhau còn tạo ra các khe hở để
nắng rọi qua. Hình ảnh bình thường ấy ta có thể bắt gặp bất kể đâu, chỉ
cần ta đứng ở dưới gốc cây dưới trời nắng, thế mà khi vào thơ Quang
Thuận, cái bình thường cũng trở lên lung linh, tươi đẹp "nắng lọt đốm hoa rơi".
Hay, trong bài Vẹt rừng Yên Tử nhà thơ Quang Thuận đã tả lại cảnh sắc đất trời và sinh vật đẹp đến lạ: "Sau trận mưa rừng, ánh nắng rơi/ Tùng xanh chao lá đàn vẹt trời/ Mẹ bế bồng con phơi nắng sớm/ Tháp đá điểm xanh áo vẹt phơi...".
Được biết, núi Yên Tử có nhiều vẹt mỏ đỏ, lông màu xanh. Sau cơn mưa
rừng, vẹt thường ra hai tháp đá phơi nắng. Bởi vậy, nhà thơ Quang Thuận
chớp được cảnh ấy. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng ông đã vẽ lại bức
tranh thơ này, có lẽ đến nay chưa ai viết hay hơn nhà thơ: "Tháp đá điểm
xanh áo vẹt phơi". Hơn thế, thơ anh còn đặt ra câu hỏi đầy hàm ý, đến
loài vật như con vẹt cũng biết yêu thương, chăm sóc nhau, vậy con người
thì sao? Cũng vì vậy hình ảnh thơ vốn đã lãng mạn lại càng đẹp đẽ, sâu
sắc và hữu tình hơn.
Còn trong bài Vân du Yên Tử, anh có viết: "Mênh mông mây núi bóng sư thầy/ Trăm năm duyên kiếp còn lưu lại/ Lối cũ đường xưa ngập cỏ cây".
Hình ảnh thơ thật đẹp, đó là sư thầy giữa mênh mông mây núi, một cảnh
huyền mộng, tĩnh lặng, trong đó pha một chút chạnh lòng về sự nhỏ nhoi
của con người trước cái vô cùng của vũ trụ. Bởi vậy, với mỗi ai khi được
đọc những vần thơ này cũng sẽ thoáng có một cảm giác bâng khuâng man
mác.
Tuy nhiên, một chút ngậm ngùi đó cũng sẽ qua đi khi chúng ta đến
với Yên Tử qua bài thơ cùng tên của nhà thơ Quang Thuận. Đó là cảnh
thiên nhiên đất nước đầy khỏe khoắn, oai hùng, đáng tự hào biết bao:
Vòng cung uốn lượn tựa mình rồng
Vươn mình thế núi hướng biển Đông
Ẩn sâu khúc lượn trong lòng đất
Đầu rồng ngoảnh lại hướng Thăng Long.
Dãy
núi Yên Tử mang hình một con rồng lượn ra biển Đông còn đầu quay lại
phía Cố đô Thăng Long cho thấy đây là một địa thế rất đẹp và linh
thiêng. Mặc dù nhà thơ không phải là người duy nhất biết được địa thế
linh thiêng của vùng đất này nhưng quan trọng là anh biết đưa nó vào thơ
một cách tự nhiên để bất tử hóa một địa danh vốn là niềm tự hào của mỗi
người dân nước Việt.
Song, đến với thi phẩm Yên Tử trường xuân, độc giả lại nhận ra chất thiền thấm đẫm trong thơ của Quang Thuận:
Từ bỏ ngôi vua để tu hành
Từ cái nhất thời, cái hữu danh
Vĩnh hằng vô hạn, vua tìm đến
Yên Tử trường xuân hóa đất lành".
Bài
thơ không chỉ đơn giản kể lại tích vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng
lên Yên Tử tu hành mà còn đi vào chiêm nghiệm thiền học về những vấn đề
nhất thời hay hữu danh với cái vô hạn. Bằng những câu thơ đó, Quang
Thuận đã tạo cho độc giả được dịp tiếp xúc với những thuật ngữ của thiền
để họ có thể hiểu hơn về đạo thiền.
Chất thiền cũng thể hiện rõ trong bài thơ Yên Tử đài xuân:
Cõi thiền xa lánh vòng tục lụy
Phúc địa dài lâu đài Yên Xuân".
Yên
Tử là đất Phật chốn Tổ cõi thiêng, kinh đô Phật giáo của Đại Việt đời
nhà Trần, bởi vậy, làm sao khi viết về Yên Tử lại có thể bỏ qua đạo
Phật, chữ thiền được.
Rồi nữa, bài thơ Am tranh cũng mang đậm chất thiền:
Non cao kết cỏ dựng am tranh
Áo lá rau xanh uống nước lành
Túi vải trên vai cùng gậy trúc
Vô vi cõi Phật giữa rừng xanh.
Thanh
nhàn biết bao và thanh tịnh biết bao. Cuộc sống giản đơn đến ngọt ngào.
Ở am tranh không vướng bận những tham, sân, si, nghi, mạn của người đời
mà vô vi về cõi Phật. Những câu thơ giản dị nhưng sâu sắc đồng thời khi
đọc lên ta cảm thấy một sự an lành, thoải mái, như cùng người sống
trong am tranh trút bỏ hết những phiền não, mệt mỏi do cuộc sống thường
ngày đưa lại. Thơ trong sáng và lặng khiến cho người đọc cảm thấy sự
thanh thản.
Thiền là vậy nhưng thiền không có nghĩa là vô vi hoàn
toàn, lại càng không có nghĩa là vô tâm. Ngược lại, nhà thơ Quang Thuận
ấn tượng còn bởi tính nhân văn thấm đẫm. Độc giả dễ dàng nhận thấy điều
này trong Kẻ cướp chặn đường. Bài thơ kể một cách xúc động về
tích vua Trần Nhân Tông đã cảm hóa ba tên kẻ cướp sau trở thành tín đồ
ngoan đạo của phái Trúc Lâm:
Ba tên kẻ cướp nhảy chắn đường
Vua Trần cho bạc lẫn phần cơm
Nhẹ nhàng thuyết giáo trừ tâm độc
Cả ba quỳ lạy hứa hoàn lương.
Việc
làm của vua Trần còn là bài học sáng giá về đạo làm người, trong đó,
mỗi con người cần có lòng vị tha, nhân hậu. Xưa kia, vua Trần Nhân Tông
đã dùng tâm phúc và chữ nhân để cảm hóa kẻ ác tặc sai đường lạc lối thì
ngày nay, nhà thơ Quang Thuận lại dùng chữ tâm của mình để viết lên bài
thơ Kẻ cướp chặn đường như nhắc lại người đời chớ vứt bỏ đi tình yêu thương, độ lượng.
Quả là không nói quá khi cho rằng Thi Vân Yên Tử
của nhà thơ Quang Thuận đã, đang và sẽ giúp chúng ta thanh lọc tâm hồn,
gạt bỏ những mệt mỏi, mưu toan để sống một cuộc đời thanh sạch, êm ái
đầy tình thương yêu, độ lượng cao đẹp hơn.
N.V
Nguồn tin: TCNV 02-2012
Viết bởi truongduynhat Đăng lúc 0:00 am12 August 2012
Từ một người không hề biết làm thơ, bỗng dưng được rắn hổ Kim Xà và
phượng hoàng nhập hồn, biến thành một nhà thơ với những vần thơ “thiên
giáng” dự giải… Nobel!
Cà phê Trúc Lâm Viên, Đà Nẵng. Đang ngồi
với Nguyễn Quang Lập và Huy Đức thì một gã đến chào. Người phốp pháp,
mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Trông tướng vừa tựa Mã Giám Sinh, áo
vét đen thẳng nếp chỉn chu như một quan chức hàng Bộ trưởng, lại vênh
váo bất cần vẻ ta đây của một tay trọc phú thừa tiền ít chữ.
Tôi chưa từng gặp và cũng chẳng nghe cái
tên Hoàng Quang Thuận bao giờ. Lão cũng vậy, nghe anh Lập và Huy Đức
giới thiệu Trương Duy Nhất mà cứ ngơ ngơ như bò đội nón. Huyên thuyên về
tiền và các mối quan hệ từ tầm Hữu Thỉnh, Hữu Ước trở lên.
Khi gã đi rồi, Nguyễn Quang Lập mới tủm
tỉm: nhà thơ Hoàng Quang Thuận, ông đã nghe bao giờ chưa? Về bấm google
sẽ ra, một nhân vật khá… hay đấy!
Thế rồi sự việc cứ trôi qua khiến quên béng
đi. Cái tên Hoàng Quang Thuận quá lạ, không đủ hấp lực để buộc tôi phải
gõ google tìm kiếm. Dáng hình phốp pháp nhẵn nhụi mày râu vênh váo bất
cần như bao hình mẫu thường nhật cũng vụt qua mau, chẳng để lại ấn tượng
gì.
Bất chợt mấy hôm rồi đọc báo thấy thổi ỏm
tỏi chuyện một lão nhập đồng làm “dự án” thơ tham gia giải Nobel. Trông
khuôn mặt quen quen, cố nhớ mãi, hóa ra là cái lão áo vét chỉn chu nhẵn
nhụi mấy tháng trước gặp ở cà phê Trúc Lâm Viên.
Lần này thì không kiềm nổi. Gõ google mới
tá hỏa: hóa ra lão này quá… nổi tiếng! Một “hiện tượng văn chương”,
những vần thơ "thiên giáng" !!!
Nhà thơ Chủ tịch hội nhà văn Việt Nam Hữu Thỉnh và nhà thơ “thiên giáng” Hoàng Quang Thuận (ảnh Vănvn.net)
Trước khi nhận định về “những vần thơ thiên
giáng" và hiện tượng Hoàng Quang Thuận, hãy tìm hiểu xem ông là ai và
cơ duyên nào đã khiến ông đến với thơ để trở thành một “hiện tượng văn
chương” ứng viên tiềm năng của giải… Nobel?
Sinh năm 1953, quê Quảng Bình, là giáo sư
tiến sĩ, Viện trưởng Viện công nghệ viễn thông – Trung tâm khoa học tự
nhiên và công nghệ quốc gia, hiện sống và làm việc tại TP.HCM. Hoàng
Quang Thuận cho biết từ trước 1997, ông chưa bao giờ biết làm thơ. Nhưng
duyên nghiệp thơ ca đã đến với ông khi lần đầu tới thăm non thiêng Yên
Tử.
Khi từ đỉnh chùa Đồng xuống đến chùa Hoa
Yên, ông gặp một tay thanh niên người dân tộc đang ngồi rao bán một con
rắn hổ chúa có mào đỏ chót nghe nói vừa bắt được tại gốc sứ cổ thụ 700
năm tuổi, sát cạnh mắt rồng của khu lăng mộ tổ vua Trần. Ông Thuận đã
mua “ngài” hổ chúa rồi phóng sinh. Con hổ chúa được vị ni sư Huệ Giác
đặt tên là Kim Xà. Điều kỳ lạ: ngay khi được thả, Kim Xà bèn ngẩng cao
đầu hơn 1m, gật đầu ba lần chào ông Thuận rồi mới trườn vào rừng thiêng
Yên Tử.
Từ đó ông như bị thần nhập và bắt đầu biết
làm… thơ! Chỉ trong 3 đêm, cứ từ 12 đến 5 giờ sáng, ông viết liền một
mạch 63 bài thơ về Yên Tử. Những vẫn thơ "thiên giáng" ấy được in thành
tập “Ngọa vân Yên Tử”. Sau này ông cho bổ sung, tái bản thành tập mới là
“Thi vân Yên Tử” với 143 bài. Độc bản 143 bài “Thi vân Yên Tử” nặng
120kg sau đó được trao giải “kỷ lục châu Á”.
Một tập thơ khác của Hoàng Quang Thuận cũng đượm chất kỳ bí bởi được khoác vào câu chuyện “tiền nhân mượn bút”.
Trong dịp đại lễ nghìn năm Thăng Long, ông
và nhà thơ Dương Kỳ Anh về “cầu thơ” tại khu du lịch tâm linh Tràng An –
Bái Đính. Khi thuyền qua đền Trình, ngang cửa hang Địa Linh, hang Tối,
hang Sáng, hang Nấu Rượu… thì bỗng thấy hiện lên một con chim phượng
hoàng tuyệt đẹp cánh trắng, mỏ vàng bay lướt qua rặng cây ven suối. Lập
tức lúc đó người ông như trào dâng một cảm giác rất đặc biệt, như đột
nhiên bị lôi chìm vào một không gian trầm mặc, trang nghiêm và kỳ bí của
mấy nghìn năm trước.
Sau khi lễ tại đền Trần, Dương Kỳ Anh và
Hoàng Quang Thuận ở lại qua đêm mỗi người một phòng trong khu nhà lầu
hình bán nguyệt. Hai ông đã cùng nhau làm một cuộc tâm nguyện trước bàn
thờ Phật tổ rồi ký tên vào những xấp giấy trắng (khổ A4) để ứng nghiệm
thơ thiền (xin thần nhập về để làm… thơ). Hai người ký chéo những tờ
giấy trắng và trao đổi cho nhau. Hoàng Quang Thuận nhận 141 tờ có chữ ký
của Dương Kỳ Anh và ngược lại. Đến 12h đêm, mọi thứ vẫn yên bình không
động tĩnh gì. Khuya, Hoàng Quang Thuận chợt thấy mát lạnh trong người,
như có một luồng gió lạ thổi qua. Ông lấy một tấm chăn choàng lên người
và ngồi vào bàn viết. Kỳ lạ, như có “tiền nhân” nhập hồn, những câu thơ
cứ tự thế tuôn trào, ông ngồi viết liền một mạch trong trạng thái rất vô
thức. Khi giật mình choàng tỉnh thì đã 4h sáng. Nhìn trên mặt bàn, ông
thấy la liệt những tờ giấy mình vừa viết, thu lại đếm được tất cả 121
bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt Đường luật. Chính ông cũng ngỡ ngàng
không tin được điều kỳ lạ vừa xảy ra. Trong khi Dương Kỳ Anh chỉ làm
được vỏn vẹn… 4 câu.
Thật hư câu chuyện Kim Xà mào đỏ và chim
phượng hoàng cánh trắng mỏ vàng ra sao không rõ. Bởi chẳng ai thấy, chỉ
nghe ông Thuận kể lại. Nhưng chuyện ông bỗng dưng biết làm thơ, thơ tuôn
trào đến hàng trăm bài thì có thật.
Chính Dương Kỳ Anh cũng phải khâm phục và
kinh ngạc trước sự “nhập thơ” thần bí kỳ lạ này. 121 bài thơ Đường luật
“tiền nhân mượn bút” đó sau này được Hoàng Quang Thuận in thành cuốn
“Hoa Lư thi tập”. Độc bản “Hoa Lư thi tập” nặng 54kg được đem trưng bày
tại khu vực hoàng thành Thăng Long trong dịp kỷ niệm nghìn năm Thăng
Long – Hà Nội.
Nếu độc bản “Thi vân Yên Tử” được trao giải
“kỷ lục châu Á”, thì độc bản “Hoa Lư thi tập” (kích thước 109cm x 70cm x
10cm, nặng 54kg) đang được ông Thuận làm hồ sơ đệ trình UNESCO công
nhận là… di sản ký ức nhân loại!
Lịch sử văn chương Việt chưa bao giờ có
được một “hiện tượng thơ” độc đáo và kỳ bí đến vậy. 3 tập “Thi vân Yên
Tử”, “Ngọa vân Yên Tử” và “Hoa Lư thi Tập” được in và tái bản tới 4 lần
với các bản tiếng Việt – Anh – Pháp. Riêng tập “Thi vân Yên Tử” được một
vị giáo sư tên David đem về sử dụng để… giảng dạy trong trường đại học ở
Mỹ (!?)
Đặc biệt và hoảng hốt hơn: Từ năm 2009, ông
Thuận đã cho làm hồ sơ dịch 2 tập “Thi vân Yên Tử” và “Hoa Lư thi Tập”
sang tiếng Anh để gửi tham dự giải Nobel văn chương quốc tế. (xem kyluc.com, an ninh thủ đô, phongdiep.net)
Hoàng Quang Thuận với những tập “thơ thần”
và “dự án” Nobel của ông đã tạo nên một hiện tượng hiếm hoi có một không
hai. Nhiều bàn cãi, chê thì thậm tệ mà khen cũng ngút trời.
Nhà thơ Trần Trương (tạp chí Thơ) cho rằng:
“Tác giả bảo trong 4 giờ của một đêm, hình như có “tiền nhân” nhập vào
hồn nên ông viết liền 121 bài thơ theo thể tứ tuyệt Đường luật. Tôi nghe
xong thấy kinh hãi, và tự hỏi: đây là một thiên tài hay một người tâm
thần vì ông đã quyết định gửi tập thơ “Thi vân Yên Tử” đi dự
giải Nobel thế giới. Tôi đọc tập “Thi vân Yên Tử” và nghe qua nhiều phát
ngôn của bạn đọc và các nhà thơ khác thì tập thơ này là tập thơ tả cảnh
một cách trực giác nhưng vô hồn, một tập thơ của người chơi ngông, và
chắc chắn là hầu hết các bài làm theo kiểu “Đường luật” thì đều sai
luật” (nguồn: báo Thanh Niên)
Nhà phê bình Nguyễn Hòa cũng khá nặng nề:
“Dù tác giả làm nhiều bài thơ tứ tuyệt, hoặc ghép hai bài tứ tuyệt thành
một bài thất ngôn bát cú cho có dáng dấp Đường luật, thì ngay cái việc
cố gắng ép vần cũng đã đưa lại ý từ khôi hài…”
Trong khi nhiều nhà phê bình gọi Hoàng
Quang Thuận là “dòng thơ thiền”, thì Nguyễn Hòa và Nguyên An gọi đó là
loại thơ “vịnh cảnh”. Nguyễn Hòa cảnh báo: “Xin chớ nghĩ hễ trong bài
thơ có hình ảnh chùa chiền, non cao, bóng núi, cây đa, mây trời, trăng
treo, tiếng hạc… là bài thơ sẽ có chất thiền”.
Dù sao, vẫn thấy nhiều người ca bốc hơn
chê. Hay tại thiên hạ vẫn quen nếp thấy “bất thường” tí là cười khẩy bỏ
đi không thèm dây vào?
Hội nhà văn Việt Nam lại có vẻ như bắt được
cái mạch thơ “thiên giáng” của Hoàng Quang Thuận. Chủ tịch hội, ông Hữu
Thỉnh đã nhìn nhận thơ Hoàng Quang Thuận là “nghệ thuật cao nhất của
thơ ca”. Đề cập tới bài “Am xưa”(Sớm cưỡi mây chơi cùng non biếc/Đêm về bến nghỉ lót trăng nằm/Tiếng sáo thiền ca vui bất tận/Ngập tràn Yên Tử trăng trong trăng”,
nhà thơ Hữu Thỉnh nhận xét: “Đây là bài thơ tiêu biểu cho hai bút pháp
thiêng liêng hóa và đời thường hóa, nhân vật trong bài thơ này phải là
người tu đắc đạo mới lấy trăng thay cho giường chiếu mà không sợ phàm
tục, nhìn thấy trong trăng còn nhiều trăng nữa, tức là qua một vật mà
nhìn thấy cái vô biên của vạn giới”
Một đại hội thảo về “hiện tượng” thơ Hoàng
Quang Thuận đã được Hội nhà văn Việt Nam tổ chức một cách kỳ công, như
thể là bước chuẩn bị… thành kính làm bệ đỡ cho khát vọng Nobel của ông
Thuận.
Cùng với nhà thơ Chủ tịch hội Hữu Thỉnh,
rất rất nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu tên tuổi đều hết lời ngợi ca và tỏ
ra thích thú với hiện tượng “thần phật linh ứng nhập hồn” biến một lão
ông không hề biết làm thơ thành một “nhà thơ” kỳ bí cho nền thơ Việt.
Nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên viết “Đối với
Hoàng Quang Thuận, không có ma quỷ nào đưa lối dẫn đường cả, mà chỉ có
thần, phật phù hộ độ trì từ khi ông phát tâm nguyện làm một đệ tử trung
thành nơi cửa thiền, để rồi từ đấy những vần thơ thấm đẫm chất linh
nghiệm báo ứng của tiền nhân hiện về”. Nhà phê bình Đặng Hiển lại cho
rằng, nét đậm nhất của “Thi vân Yên Tử” là dấu tích của vua phật Trần
Nhân Tông trên Yên Tử. Ông cũng nói thêm “nhưng đó là dấu tích trong
lòng người, trong lòng thi nhân”. Nhà phê bình trẻ Thế Trung nhận xét,
với hơn một trăm bài thơ, Hoàng Quang Thuận đã vẽ ra trước mắt người đọc
một quang cảnh tuyệt mỹ của vùng núi mây Yên Tử, đồng thời được tìm về
cội rễ của thiền phái Trúc Lâm. Thế Trung nói: “Thi vân Yên Tử” tập hợp
những vần thơ vừa thanh tao, tĩnh lặng, vừa huyền diệu, xa vắng, mang
nhiều hàm ý sâu xa, lại gần gũi với đời thường dễ dàng thấm sâu vào lòng
người”. Đăng Lan lại cảm nhận: “Thi vân Yên Tử” – Bằng tâm hồn
nhạy cảm, tứ thơ hiền hòa, thanh thoát, ám ảnh đậm chất biểu trưng nên
tạo khởi rất nhanh, biến ảo trong cái thế giới liên tưởng trong tâm hồn
người đọc. Nó là tiếng nói của cảnh giới xuất thế biểu hiện sự sâu lắng;
nơi đây giáp mặt cả bốn bề tâm sự; lắng nghe, tỏ bày, đốn ngộ…”
Nhiều vị nhắc đến và đánh giá cao những câu
thơ “thần” viết về Am Ngọa Vân của Hoàng Quang Thuận có tên “Am xưa”
như nhà thơ Hữu Thỉnh, Trần Nhuận Minh, Hữu Việt, nhà phê bình Trần Thị
Thanh, Ngô Hương Giang: Sớm cưỡi mây chơi cùng non biếc / Đêm về bến
nghỉ lót trăng nằm / Tiếng sáo thiền ca vui bất tận / Ngập tràn Yên Tử
trăng trong trăng”.
Còn ông Dương Kỳ Anh, nhà thơ, cựu Tổng
Biên tập báo Tiền Phong thì nhận xét đấy là “những câu thơ hay đến lạnh
người”. (nguồn: evan. vnexpress.net)
Thậm chí (mô Phật!), nghe nói Đại tướng Võ
Nguyên Giáp cũng đã bình thơ của nhà “thiên giáng” Hoàng Quang Thuận
rằng “đọc những bài thơ hay đượm gió ngàn cao, thấm nguồn suối núi,
những bài thơ của một con người đầy tư tưởng nhân văn”. (nguồn: báo điện tử đảng Cộng sản VN)
Còn tự ông Hoàng Quang Thuận nói về những bài thơ “tiên giáng” của mình thế nào?
Ông bảo “đó là tiền nhân mượn bút tôi viết
thơ”. Phản ứng trước nhận xét của một số người cho rằng thơ ông chỉ là
thể thơ du ký, loại tức cảnh sinh tình bình thường xuất hiện nhan nhản
trong đời sống văn học hiện nay, ông Thuận nói: “Những bài thơ du ký là
bài thơ làm về con người thực, địa danh thực do họ nhìn thấy, cảm thấy,
còn tôi du ký trong một đêm sương gió, trong một đêm huyền ảo, du ký
trong tâm tưởng. Nhiều địa danh xuất hiện trong thơ tôi ở Hoa Lư, Yên Tử
sau đó các nhà sử học phải tìm lại, dân ở đó còn chả nhớ, phải tra lại
mới ra, có chỗ phải dịch chữ Hán mới ra”.
Sau 2 sự kiện ly kỳ như ông kể, liệu “tiền nhân” có còn tiếp tục nhập hồn “mượn bút” ông viết thơ nữa không?
Ông Thuận bảo “Cái này không nói trước
được. Phải có những thời khắc lịch sử nhất định, hòa hợp âm dương nhất
định mới ra đời. Ví dụ như dịp tròn 700 năm vua Trần Nhân Tông về Yên Tử
thì mới có “Thi vân Yên Tử”, dịp nghìn năm Thăng Long thì mới có “Hoa
Lư thi tập”… (nguồn: phongdiep.net)
Thú thật, tôi không thể tin nổi vì sao thơ
lại có thể “nhập” được vào một khuôn tạng như ông Thuận. Nhớ lại buổi
gặp tình cờ ở cà phê Trúc Lâm Viên, hình dung lại cái khuôn mặt, cách
tiếp chuyện khiến cứ phải liên tưởng đến… Đinh La Thăng! Ông Thăng cũng
có làm thơ. Thơ ông được phổ nhạc, nhưng không dự Nobel, mặc dù ông
Thăng vẫn có một khát vọng… Nobel khác! (xem “Đinh La Thăng và khát vọng Nobel”)
Cái tên Đinh La Thăng giờ nhiều người nghe
là sợ. Sợ ổng lâu lâu nổi hứng nảy ra một “sáng kiến” thì dân tình méo
mặt. Trước tôi chưa biết chưa nghe đến cái tên Hoàng Quang Thuận. Nhưng
giờ đây ra đường, hễ cứ nghe ai nhắc đến Hoàng Quang Thuận là giật thót
mình lui người lại.
Không biết bạn đọc đánh giá hiện tượng thơ
“thiên giáng” và nhân vật Hoàng Quang Thuận ra sao, chứ tôi hoảng quá.
Hoảng còn hơn cả khi nghe ông Hữu Thỉnh tuyên bố tổ chức đại lễ thơ,
hoảng hơn cả khi nghe có ông đại biểu quốc hội đòi phải ban hành “luật
thơ”, hoảng hơn cả khi nghe ai đó đề xướng ý tưởng đòi UNESCO công nhận
Việt Nam là… cường quốc thơ!
Thương thay cái dân tộc của tôi. Một dân
tộc mà ai ai cũng làm thơ, toàn dân làm thơ, toàn dân thành nhà thơ. Có
lẽ đây chính là một biểu hiện bất thường trong tâm sinh lý và tư duy của
người Việt. Vì thế, trong hàng triệu triệu nhà thơ, bỗng hôm nào đó
một vài vị bỗng dưng được rắn-phụng-chuột-mèo-chó-chim nhập hồn, hóa
thành thần nhập thiên giáng như “hiện tượng” thơ Hoàng Quang Thuận cũng
là điều dễ hiểu.
Chỉ có điều cứ nghe nhắc là phản xạ giật
thót mình lui người lại như phải tránh một cái điều gì đó rất vô hình,
vớ vẩn, mông lung.
Nguồn trươngduynhat.vn
Tin thêm- Không phải chờ đợi lâu, vừa có thêm bài: