Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài trình bày của
Phó Giáo sư Trần Ngọc Vương tại Hội nghị Trần Nhân Tông về Hoà giải tổ
chức tại Harvard Faculty Club, ĐH Harvard, Mỹ ngày 21/09 vừa qua.
Trong lịch sử Việt Nam từ sau thời điểm phục hưng được chủ quyền quốc
gia (939), hiện tượng những người có thân phận ra đời trong hoàng gia,
được quyền kế thừa ngôi vua hoặc ít nhiều có cơ hội để tranh đoạt ngôi
vị đó nhưng lại thờ ơ với nó trên thực tế không phải là hiếm. Cả khi đã
đăng cơ, một vài trong số họ vẫn nuôi giữ ý định rời bỏ ngôi vị. Có thể
kể một số trường hợp tiêu biểu, chẳng hạn như cháu đích tôn của Ngô
vương Quyền là Ngô Xương Tỷ, xuất gia tu hành ngay từ thời ông nội còn
tại vị, về sau là vị Quốc sư của cả nhà Đinh và nhà Tiền Lê: Khuông Việt
Đại sư Ngô Chân Lưu; Lý Nhân Tông từng hờ hững với ngôi vua để đến nỗi
xảy ra vụ kỳ án Lê Văn Thịnh.
Trần Thái Tông từng bỏ ngôi vua trốn triều đình lên Yên Yử quyết chí tu hành với câu nói nổi tiếng "Ta đã trút bỏ ngôi vua như trút bỏ đôi giày rách" tuy rồi lại không từ bỏ được...
Sử gia nhà Nho các đời sau khi chép sử triều Trần đều chung hàm ý đánh giá, rằng nhà Trần "về khoan hậu thì có thừa mà về nghiêm trọng (nghiêm khắc, trang trọng) thì không đủ".
Đương nhiên, khuynh hướng vận động chung của hệ tư tưởng xuyên suốt
từ Ngô, Đinh cho tới tận triều Nguyễn vẫn là càng ngày càng thần thánh
hóa, tuyệt đối hóa ngôi vua, vì thế mà nhìn chung, lịch sử càng nối dài
thì sự chồng tầng theo hình kim tự tháp của kết cấu xã hội càng trở nên
nặng nề, và khát vọng vươn lên địa vị tột đỉnh ở mỗi cá thể, vì thế cũng
ngày càng mãnh liệt. Nhưng cuộc đời và hành trạng của Trần Nhân Tông
trong thực tế lại đặt ra một số vấn đề theo một đường hướng khác.
|
Để hiểu Trần Nhân Tông, hẳn rằng phải trả lời một câu hỏi đặc biệt:
rằng khi ai đó đã có địa vị (thậm chí từ thuở lọt lòng) là "bề trên tự
nhiên", một vị trí độc đắc, tối thượng mà bối cảnh lịch sử - cụ thể
không làm xuất hiện đối thủ tranh giành, rồi người đó lại được hưởng thụ
một nền giáo dục hoàn hảo bậc nhất của thời đại mình, tự giáo dục một
cách ráo riết với một tư chất bẩm sinh là phi phàm, thì rốt cuộc, người
ấy có thể muốn gì và có thể làm gì với đời sống và sinh mệnh của chính
mình, theo yêu cầu tối ưu hóa tồn tại?
Triết lý sống xuất hiện từ xa xưa trong nền văn hóa Trung Hoa rồi phổ
cập ra toàn vùng Đông Á về mục tiêu rốt ráo của đời người là làm sao để
"dự" được vào một trong ba vị trí: lập đức, lập công hay lập ngôn, gọi là "tam bất hủ".
Mẫu người cầm quyền lý tưởng theo Nho giáo là thánh vương, trên thực tế lịch sử là hiền nhân lập đức.
Thánh hiền Nho gia nói chung chính là mẫu người lập đức, kết hợp nhiều
ít với tiêu chí lập ngôn. Nhưng thánh hiền Nho gia không ai thực sự lập
được "đại công", hiểu theo nghĩa có một sự nghiệp chính trị nổi bật lúc
sinh thời.
Pháp gia không đưa ra hình mẫu mang tính lý tưởng thực thụ, vì đó là
một học thuyết cai trị theo tinh thần duy lợi, thực dụng nhưng tìm ra từ
các công trình mang tính lý thuyết cơ bản của các nhà tư tưởng thuộc
phái này, thì mẫu người cầm quyền đáng được đề cao nhất chính là mẫu
người cầm quyền có đại công.
Trong lịch sử chính trị của Trung Quốc, một lịch sử chính trị có thực
chất "nội Pháp ngoại Nho", "thập đại đế vương" chính là những Hoàng đế
được ghi nhận trên đường hướng này. Không ai trong số các đế vương nhờ lập ngôn mà trở nên hiển hách trong lịch sử. Phần lớn các "đại đế vương" Trung Hoa có khuyết tật trong nhân cách.
Với tất cả những dữ kiện lịch sử khả tín còn lại đến nay mà mình có
thể biết, với tư cách nhà khoa học, cá nhân tôi không tìm thấy những
bằng chứng để nhận xét rằng Trần Nhân Tông có thể có những tỳ vết nào đó
về phương diện đức hạnh!
Sử thần Nho gia về sau từng đưa ra lời đại nghị, rằng Ngài "bẩm được tinh anh thánh nhân, thần khí tươi sáng, thể chất hoàn hảo". Dường như "luật thừa trừ" ("bỉ sắc tư phong" - được cái này thì mất cái kia) đã lảng tránh, không đụng chạm tới Ngài!
Kinh nghiệm cho thấy, để hiểu một nhân vật lịch sử ở những tầng sâu
kín nhất của họ, thường cần phải xâm nhập vào những trước tác hay những
di ngôn, di chúc mà họ để lại. Chả thế mà S. Freud cùng các đồ đệ đã
nhất trí cho rằng nghệ thuật và những giấc mơ cung cấp cho ta hình ảnh
thăng hoa của những gì các "đương sự" không hoặc chưa thể thực hiện
trong đời thực. Vô số khát vọng của con người, của cả các vĩ nhân, quằn
quại, giãy dụa roi rói trong các con chữ, mặc cho thể xác họ đã từ lâu
tuần hoàn trong hoàn vũ. Nhưng đọc hết những trước tác mà Trần Nhân Tông
để lại, lại cơ hồ không tìm thấy dấu vết của những "mộng ước chưa
thành" ấy. Chỉ có thể cho rằng, Ngài đã sống một cuộc đời không còn gì
đáng để có thể ước mơ cao hơn, xa hơn!
Nhận chân về tính hữu hạn của đời người trên tất cả mọi bình diện, đó
không phải là một phát hiện gì mới mẻ, nhất là ở các bậc được coi là
đại trí xưa nay. Nhưng kể cả các bậc đại trí cũng chỉ thường nhận ra
những giới hạn sau những thể nghiệm thất bại, và cũng thường phải đợi
tới độ tuổi "sang nửa bên kia" của đời người. Vào một ngày "Xuân muộn" (Xuân vãn), Trần Nhân Tông cũng thể nhận điều đó:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim kham phá Đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng
(Tuổi trẻ chưa từng hiểu thế nào là "sắc", "không"
Mỗi độ xuân về lòng để giữa trăm hoa
Nay khi đã khám phá ra khuôn mặt chúa xuân
Thì ngồi thiền trên tấm bồ đoàn nhìn hồng rụng).
Nhưng dường như sự thể nhận này ở Trần Nhân Tông không xuất lộ bởi
những trải nghiệm đắng cay nào đó trong đời sống của chủ thể, và cũng
chỉ vào thời khắc "muộn của mùa Xuân" chứ không là "buồn tàn thu" hay "sầu đông" ảo não. Tính chất an nhiên lộ rõ trong từng chữ.
Những bậc thánh triết Đông phương thường thường chỉ bàn về mọi lẽ một khi đã "liễu sinh tử",
tức đã thông hiểu tận cùng "căn nguyên và cơ cấu của sự sống và sự
chết". Làm chủ được "lẽ tử sinh", với cơ hồ tất cả họ, mới xác lập được
tiên đề cho việc luận đàm về mọi điều còn lại. Không chỉ Phật giáo, mà
các học thuyết hay tôn giáo khác trong toàn khu vực cũng khá đồng quy
trong tinh thần đó. Đứng trên lằn ranh giới của cuộc sinh tồn, chính là
xác lập một tọa độ lý tưởng để có thể "quán chiếu" rốt ráo đối với mọi
"ỉ eo đời thường" khác.
Nhậm ngôi cao, lập công lớn, sớm thành bậc thượng trí minh triết,
Trần Nhân Tông kịp dành phần lớn cuộc đời mình để phụng sự cho cộng
đồng. Khác với rất nhiều những triết nhân một khi đã tự cho mình là đấng
toàn tri (omniscience) thì cũng bị ám ảnh bởi một thứ chủ nghĩa bi quan
triết học, Trần Nhân Tông truyền cho đời sống một cảm xúc chí ít phải
được đánh giá là lạc quan, nếu không cho rằng đó là một thái độ "ngày
hằng sống, ngày hằng vui".
Tinh thần "hòa quang đồng trần", "cư trần lạc đạo", "tam giáo tịnh hành"
... nhờ thế trở thành "phong cách sống" của rất nhiều nhân vật văn hóa -
lịch sử của thời đại. Dưới triều đại của Ngài, từ quý tộc, văn nhân, võ
tướng, nhân gian bách tính cho đến những người thân phận thấp
kém như hoạn quan, gia nô, nô tỳ, cho cả đến tù binh, tù nhân, những
nhóm dân cư do hoàn cảnh cụ thể lâm vào tình thế tha phương cầu thực hay
bị hạn chế tự do, đều nhất loạt trở nên "dễ sống" hơn, vui sống hơn.
Cá nhân Trần Nhân Tông, trong khi vừa tiếp tục thực thi những bổn
phận "thế tục", "hàng ngày" của mình, vừa làm nhà cầm quyền tối cao, vừa
làm nhà ngoại giao kỳ đặc (cả trong những tình huống ứng xử đối
nội lẫn đối ngoại), làm vị tướng song toàn, làm con hiếu thuận, làm cha
nghiêm từ, làm em, làm anh độ lượng.., lại còn vừa lo nghĩ, tính toán
nhiều đại sự cho nhiều thế hệ tiếp theo.
Chỉ với những gì thư tịch còn sót lại đến nay, có thể khẳng định Trần
Nhân Tông là một tác giả văn chương vừa tinh tế vừa đa phong cách. Một
trong những đóng góp đặc biệt của Trần Nhân Tông với tư cách tác giả văn
học thể hiện ở chỗ Ngài chính là tác giả quan trọng đầu tiên còn để lại
những tác phẩm lớn bằng chữ Nôm (với hai tác phẩm Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca), góp phần quan trọng kiến tạo nên bộ phận văn học viết bằng ngôn ngữ ghi lại tiếng nói của dân tộc.
Như nhiều học giả đã khẳng định, Thiền phái Trúc Lâm do Ngài sáng lập
và trở thành Trúc Lâm đệ nhất tổ vừa kế thừa được tinh hoa của Thiền
Tông nói chung, vừa kết tinh những thành tựu tu tập và quán tưởng của
các hành giả bản địa, để trở thành một Thiền phái mang đậm sắc thái dân
tộc mà đặc điểm hàng đầu là tinh thần nhập thế lạc quan, lại cũng vừa là
nơi thể nghiệm sự kết hợp, dung hòa thêm các thành tố có nguồn gốc tôn
giáo, tín ngưỡng hay học thuyết khác.
Tinh thần "dung tam tế" của các bậc quốc sư từ nhiều triều đại trước
đến đây mở rộng hết tầm vóc. Một trong những chứng tích có ý nghĩa nhiều
mặt được truyền thông rộng rãi gần đây chính là việc đấu giá phiên bản
của bức họa Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ mà bản gốc được coi là quốc bảo đang được bảo vệ và lưu trữ ở Trung Quốc.
Còn nữa