Thời Hai Bà Trưng người Việt viết chữ gì
Hà Văn Thuỳ
Đó là câu hỏi lớn về lịch sử văn hóa Việt chưa có lới đáp.
Giáo sư Lê Trọng Khánh cho rằng, chúng ta có loại chữ ghép vần mà sau
này các cố đạo Bồ Đào Nha dựa vào để chế chữ Quốc ngữ (1). Nhà giáo Đỗ
Văn Xuyền thì bảo, đó là chữ Khoa đẩu giống như chữ của đồng bào Thái
(2). Thiết nghĩ, đấy là một hướng tìm tòi nhiều triển vọng. Nếu có một
chương trình nghiên cứu mở rộng, khảo sát thêm chữ viết trên lá buông
của một tộc đồng bào thiểu số Nghệ An mới được phát hiện và nhất là tìm
lại những cuốn sách mà đoàn quân của Hai Bà Trưng di cư sang Java mang
theo, như báo chí đã đưa, sẽ có những khám phá không ngờ.
Chúng tôi cho rằng, sáng tạo chữ viết là quá trình lâu dài, có những
hướng đi khác nhau, dẫn tới thành công hay thất bại khác nhau. Đã phát
hiện chữ thắt nút và những hình thái khác nhau của chữ Khoa đẩu nhưng để
có một kết luận khả tín về loại chữ này vẫn còn là thách đố.
Một hướng khác là, dựa vào cổ thư trung Hoa. Hậu Hán thư, Mã Viện
truyện viết: “Mã Viện tâu với vua Hán rằng luật Giao Chỉ có mười điều
khác luật Trung Quốc.” Có lẽ đó là chi tiết duy nhất dường như liên quan
tới chữ viết của người Việt? Nhưng vì câu viết quá mơ hồ nên gây ra sự
hiểu khác nhau. Phần lớn học giả cho rằng, luật nói ở đây là luật tục,
luật bất thành văn, nên không phải là văn bản. Tiến sĩ Lê Mạnh Thát thì
bảo chữ Luật ở đây là luật pháp, tức luật được ghi bằng văn tự. Chi
tiết trong sách Nam phương thảo mộc trạng: “Giao Chỉ biết làm giấy bẳng
cây mật hương. Giấy bền, dai, ngâm nước không bở,” ủng hộ ý tưởng này
nhưng do chưa đủ chứng lý nên sự việc cũng dừng ở đấy.
Ký tự ở văn hóa Giả Hồ
Chúng tôi nhận thấy, từ xa xưa, người Việt là chủ nhân của toàn bộ đất
Trung Hoa, người Hoa Hạ chỉ ra đời từ sau 2700 năm TCN tại trung lưu
Hoàng Hà . Do lẽ đó, những ký tự đơn sơ ở văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước
là của người Việt. Chữ Thủy rồi sách Thủy của bộ lạc Thủy, di duệ của
người Lạc Việt ở Quý Châu, phức tạp hơn chữ Giả Hồ nhưng đơn sơ hơn chữ
Ân Khư, cũng là văn tự do người Việt sáng tạo. Các học giả trên thế giới
khẳng định Giáp cốt văn là của nhà Ân Thương nhưng chúng tôi thấy kết
luận như vậy chưa thuyết phục. Chữ Trung Hoa do Hoàng Đế sai Thương Hiệt
làm ra chỉ là huyền thoại. Chữ không thể do một người làm ra một sớm
một chiều. Thực tế cho thấy, phải 3000 năm, những ký tự Giả Hồ mới phát
triển thành chữ Thủy! Trong khi đó, ở Trung Nguyên, đời nhà Hạ chưa có
chữ. Trên gốm nhà Hạ chỉ tìm được hơn 24 phù hiệu mà chưa phải ký tự.
Gần suốt thời Thương Trung Quốc cũng chưa có chữ. Nhưng từ khi Bàn Canh
vào đất Ân thì Trung Quốc bỗng có chữ viết với khối lượng lớn giáp cốt
mà chữ trên đó lại khá hoàn chỉnh. Đó là chuyện không bình thường phải
nói là vô lý mà trước đây chưa ai giải đáp nổi!
Nhưng từ đầu năm 2012, khi được tin Hội những người nghiên cứu văn hóa
Lạc Việt ở Quảng Tây công bố phát hiện chữ Lạc Việt ở Cảm Tang, chúng
tôi nhận ra bản chất sự việc. Phải chăng chữ tượng hình được sáng tạo ở
Sapa rồi truyền tới Giả Hồ cũng như vùng Cảm Tang, cách đó 150 km. Tại
Cảm Tang,
Chữ Lạc Việt trên xẻng đá Cảm Tang
chữ được phát triển thêm rồi theo chân người Việt đi lên vùng An Dương
Hà Nam. Tại đây, trong các thị tộc Việt trồng ngũ cốc, chữ tượng hình
được nâng cấp, không chỉ là phù tự ghi những điều bói toán, bùa chú mà
liên kết thành văn bản ghi trên xương thú và yếm rùa.
Bàn Canh chiếm đất của người Việt ở An Dương Hà Nam dựng nhà Ân. Đây là
cuộc xâm lăng khốc liệt mà chúng ta còn biết tới dư âm qua truyền
thuyết thánh Dóng. Chiếm được đất, vua quan nhà Ân nhận ra vai trò cực
kỳ quan trọng của văn tự giáp cốt nên chiếm luôn. Người Hoa Hạ đã học
người Việt, dùng chữ tượng hình trong bói toán, tế tự, ghi chép thời
tiết, thiên tượng và lịch sử. Nhà Ân Thương cũng thu gom, chiếm đoạt
giáp cốt văn các vùng khác về Ân Khư, làm cho số lượng giáp cốt tăng đột
biến. Do cùng chủng tộc Mongoloid phương Nam nên đại bộ phận người
Việt, trong đó có các thủ lĩnh và trí thức, hòa vào dân cư nhà Ân, trở
thành người Hoa Hạ. Một bộ phận người Việt vùng Hà Nam di cư về phía nam
Dương Tử với đồng bào mình. Người Việt ở khu vực rộng lớn còn lại do
chưa có tổ chừc nhà nước mạnh nên không đủ sức hoàn thiện chữ viết.
Kế tiếp Ân Thương, triều đình Chu do có nhà nước mạnh, tổ chức tốt, đã
tập hợp trí thức Việt và Hoa Hạ cải tiến chữ viết để tiến tới chữ mà
Khổng Tử dùng san định kinh, thư.
Khi nhà Tần, Hán mở rộng cuộc xâm lăng đất Bách Việt, đã sáp nhập đất
đai, dân cư cùng văn hóa của người Việt vào đế quốc. Một số bộ lạc Bách
Việt không chịu sống với quân xâm lược, bỏ vào sống trong rừng núi. Từ
người đa số, họ dần biến thành các sắc dân thiểu số. Người Thủy là một
tộc như vậy. Vốn là người Lạc Việt, chủng tộc lãnh đạo dân Việt về xã
hội và ngôn ngữ, người Thủy trở thành tộc người thiểu số trong rừng núi
Quý Châu. May mắn là họ giữ được Thủy thư, Thủy tự - sách và chữ của đại
tộc Lạc Việt. Thủy thư nay được giới khoa học gọi là văn tự hóa thạch sống.
Thủy thư
Trước đây không thể biết được thời Bà Trưng, người Việt dùng chữ gì ví
hầu như không có tư liệu. Nhưng dựa vào quả ấn Văn Đế hành tỷ (文帝行璽) và
rất nhiều chữ khắc trên đồ đồng, ngọc bích phát hiện được ở lăng mộ
Triệu Văn Đế (趙眛) tại Phiên Ngung năm 1980, có thể biết được là, vào
thời gian đó, nước ta dùng chữ Nho trong hành chính và pháp luật. Xin
được lý giài như sau:
Văn Đế hành tỷ & Ngọc giác bôi
Nhà Chu hoàn chỉnh chữ viết và truyền bá ở Trung Nguyên. Trong 800 năm
tồn tại của nhà Chu (1046- 256 TCN) có thể chữ Nho đã theo con đường
ngoại giao, thương mại hay di cư… đến nước ta. Tuy nhiên do không có
“xuất thổ văn tự” nên không thể nói được gì! Có điều chắc là muộn nhất,
chữ Nho đã tới nước ta cùng với Triệu Đà. Hành trình như sau:
Nước Triệu là tiểu quốc của người Việt, xưng thần với nhà Chu nên chữ
Nho cũng vào đây khá sớm. Xuống phía nam, Triệu Đà mang theo bộ tướng
thân cận, trong đó có người biết chữ làm văn từ. Lập nước Nam Việt, để
thực hiện việc cai trị, ông phải cùng quan tướng dùng chữ Nho trong công
văn thư từ và dạy cho lạc hầu lạc tướng. Chữ Nho do người Việt sáng tạo
để ký âm tiếng Việt nên thời đó, người nước ta học chữ Nho khá dễ dàng.
Trong 100 năm xây dựng Nam Việt, hẳn chữ Nho được dùng trong nhiều lĩnh
vực. Do biết làm giấy, lại có mực tốt (mực dùng để xăm mình) nên chữ
Nho được truyền bá khá thuận lợi. Có lẽ một phần vì thế mà lúc đó không
ai nghĩ tới việc khắc chữ trên đá hay vẽ trên đồ gốm? Như vậy là, trước
khi bị nhá Hán xâm lăng, ở nước ta, chữ Nho đã được dùng trong hành
chính, luật pháp. Khi Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, chính quyền ở nước ta
hầu như vẫn được tự quản bởi lạc hầu lạc tướng nên pháp luật vẫn theo
nếp cũ. Chỉ khi Tô Định thực hành chính sách quá hà khắc buộc người dân
nổi lên theo Hai Bà Trưng. Sau khi dẹp cuộc khởi nghĩa, Mã Viện thấy mối
nguy lớn là vai trò của lạc hầu lạc tướng. Vì vậy, cùng với những việc
làm tàn bạo khác, ông đã bắt 300 gia đình cừ súy (lạc hầu lạc
tướng) đem an trí ở đất Linh Lăng phía bắc Dương Tử. Do mất tầng lớp trí
thức nên nước ta lúc đó hầu như mất luôn chữ viết: không còn hay còn
không đáng kể người biết chữ. Văn tự viết trên giấy nếu không bị tịch
thu thì cũng hủy hoại theo thời gian. Do không còn văn bản, chứng từ gốc
nên sau này người Việt lầm tưởng là chỉ từ khi người Hán đô hộ, chúng
ta mới gặp và học chữ Hán. Từ ngộ nhận của ông cha ta dẫn tới sự hiểu
lầm của học giả thế giới. Đến nay, trong tài liệu chính thức của những
cơ quan khoa học uy tín nhất vẫn ghi: “Ngôn ngữ Việt Nam mượn khoảng 60%
từ chữ Hán.”
Chúng tôi cho rằng, giả định trên là gần với thực tế. Tuy vậy vẫn có
thể còn con đường khác: đồng thời với chữ Nho là chữ chính thức, người
Việt thời đó còn sử dụng chữ Khoa đẩu tương tự chữ của đồng bào Thái
hiện nay. Thông tin về cộng đồng người Việt di cư sang Java từ 2000 năm
trước mang theo những cuốn sách cổ không phải không có cơ sở. Đấy là
những hướng mở ra để đi sâu nghiên cứu.
Xuân Quý Tỵ
HVT
-
Lê Trọng Khánh Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình khoa đẩu. nhà xuất bản Từ điển bách khoa
-
Đỗ Văn Xuyền. Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ. Sách tự in và lưu hành
Theo Văn hoá Nghệ An
Thời Hùng Vương và Chữ Việt Cổ
Nguyễn Vũ Tuấn Anh
(Cập nhật: 9/2/2013)
Vào ngày 29 tháng 1.
2013, tại khách sạn Railway, 80 Lý Thường kiệt, Nhà xuất bản Hồng Đức phối hợp
với Liên hiệp các Hội Unesco Việt Nam Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
tổ chức một buổi giới thiệu sách "Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ"
của Nhà nghiên cứu Chữ Việt Cổ Đỗ Văn Xuyền. Một cuốn sách trong hàng trăm,
hàng nghìn đầu sách xuất bản mỗi năm ở Việt Nam với nội dung viết về một thứ
chữ đã trở thành lịch sử và bây giờ chẳng còn ai quan tâm đến nó. Nó không còn
giá trị sử dụng trong xã hội Việt Nam hiện đại và có lẽ cả xã hội loài người
nói chung. So với những cuốn sách khác bán chạy như tôm, viết về các phương
pháp kinh doanh làm giầu, những bí mật của thế giới chính trị, quân sự; những
kiến thức khoa học hiện đại; về tương lai của con người, xã hội và của cả thế
giới này... để con người có thể nhanh chóng nắm bắt, trang bị kiến thức thời
đại để nhanh chóng lao vào cuộc đời với khí thế hừng hực trong cuộc tranh đua -
thì - cuốn sách của Nhà nghiên cứu Chữ Việt Cổ Đỗ Văn Xuyền có vẻ
như không nằm trong hành trang của tri thức hiện đại. Chữ Việt cổ, nếu có thật
thì cũng chỉ như một chứng cứ lịch sử và chẳng còn gía trị sử dụng. Chẳng ai
cần đến thứ chữ viết từ hàng ngàn năm trước. Người ta đua nhau học tiếng Anh,
tiếng Trung để hội nhập với thế giới. Ngay cả chữ Quốc Ngữ hiện đại, ngay cả
trình độ trên phổ thông trung học, người ta còn viết sai cả chính tả, huống chi
là chữ viết của ông cha từ hàng ngàn năm trước.
Nhà nghiên cứu Chữ Việt Cổ Đỗ Văn Xuyền
Nếu chỉ nhìn về góc độ thực dụng hạn hẹp thì có vẻ đúng như thế! Và có lẽ cũng
vì thế mà nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền bỏ cả một đời người cũng chỉ cặm cụi một
mình với rất nhiều gian nan, với nỗi lòng đau đáu tìm về cội nguồn chữ viết của
dân tộc. Ông tự bỏ công sức với nguồn tài lực ít ỏi của chính ông và gia đình để
lặn lội đi tìm chữ Việt cổ.
Không phải đến ngày 29. 1. 2013 ông mới giới thiệu cuốn sách của này. Ngày mùng
4 tháng 5. 2012, tại Hội trường Nhà xuất bản Tri Thức 53 Nguyễn Du, Trung Tâm
Minh Triết Việt và Nhà xuất bản Tri Thức đã phối hợp tổ chức một buổi thuyết
trình về Chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền.
Sau buổi thuyết trình, sự quan tâm của các nhà khoa học chuyên ngành về lịch
sử, ngôn ngữ đều cho rằng công trình của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền chưa đủ
sức thuyết phục. Và họ - những nhà khoa học ấy - qua công trình nghiên cứu khoa
học của ông, đã khen ngợi ông Xuyền là có "tinh thần yêu nước"?! Điều
mà ông Xuyền đã quá đủ để chứng tỏ, khi vào tận sở mật thám Pháp tại Hải Phòng,
giải cứu ngài Nguyễn Hữu Thọ - sau này là Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam và Chủ tịch nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông không cần
thiết phải bỏ cả cuộc đời còn lại của mình thể hiện lòng yêu nước qua công
trình nghiên cứu chữ Việt cổ. Tôi nghĩ chính ông mới đủ tư cách nhận xét lòng
yêu nước của người khác, qua những hành động quả cảm của ông khi tham gia chống
quân Pháp xâm lược.
Trong buổi thuyết trình này, giáo sư Viện sĩ Phan Huy Lê đã tham dự và cho rằng
những luận cứ của ông Xuyền còn chưa đủ"cơ sở khoa
học".Ý kiến của giáo sư Phan Huy
Lê được báo Thanh Niên mô tả như sau:
"Vấn đề chữ viết cổ của người Việt
không chỉ trong nước mà đã được nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài chia sẻ. Và
trước đây chưa ai dám kết luận chắc chắn. GS Lê cho rằng ông Xuyền tiếp nối, có
sự bổ sung theo hướng đi của GS Lê Trọng Khánh, nghiên cứu từ chữ Thái cổ nhằm
xác định chữ Việt cổ và nhấn mạnh: “Nhưng việc tìm ra và giải mã được chữ Việt
cổ là quá trình không chỉ gian khổ mà còn khắc khổ. Phải có cứ liệu khoa học và
sẵn sàng nhận lấy sự thẩm định, phản biện, thậm chí phê phán của những người
khác”.
"Trao đổi với Thanh Niên sáng 5.5,
GS Phan Huy Lê nói: “Chữ của người Việt cổ là đề tài được một vài nhà nghiên
cứu theo đuổi. Một đề tài nghiên cứu chuyên môn sâu cần nhà nghiên cứu chuyên
môn sâu”. Ông từ chối đưa ra đánh giá cụ thể về chất lượng nghiên cứu của ông
Đỗ Văn Xuyền".
Tất nhiên, không phải chỉ có một mình giáo sư
Viện sĩ Phan Huy Lê, những nhà khoa học chuyên ngành thuộc hàng
"top", có chức danh và học vị trong các Viện nghiên cứu, khi phát
biểu cũng thể hiện sựchưa thỏa mãn
với luận điểm của ông Xuyền.
"Trong khi đó,
thạc sĩ Phạm Văn Ánh (Viện Văn học) cho rằng cách lập luận của ông Xuyền dựa
nhiều trên cách đọc của chữ quốc ngữ hiện tại, chưa có lý do gì để khẳng định
các cụ ta lại sử dụng nguyên lý đọc này. PGS-TS Tống Trung Tín cho biết: “Tôi
đánh giá đây là một cách đọc theo phương pháp khoa học là… tưởng tượng. Nghĩa
là nó không mấy chặt chẽ và hơi võ đoán”.
Với địa vị học thuật thể hiện qua danh vị và những chức vụ đảm trách các bộ môn
khoa học liên quan, những phát biểu của họ nghiễm nhiên mang tính quyền lực học
thuật. Và thế là nó gây một cảm giác mơ hồ vốn mang tính phổ biến với cụm từ"chưa được khoa học công
nhận". Đương nhiên với những ý kiến của
những nhà khoa học có danh vị, làm cho đông đảonhững người ủng hộ một cảm giác rằng: Một nhà nghiên
cứu nghiệp dư, không tên tuổi, còn có bút danh là trong thế giới văn chương làKhánh Hoài - tức là không có"chuyên
môn sâu",như cách nói của giáo sư
Viện sĩ Phan Huy Lê - lại có thể làm được một công việc mà ngay những nhà khoa
học tên tuổi - cả trong lẫn ngoài nước, từ hàng trăm năm nay - đã thất bại!?
Nhưng sự thành công trong việc đi tìm hệ thống chữ Việt cổ đã thực sự xảy ra
với công trình nghiên cứu của ông Xuyền. Bởi vì, trong nghiên cứu khoa học
không lệ thuộc vàosức chứa bộ nhớ
và chức danh của các nhà khoa học. Nó cũng không phụ thuộc vào số đông cổ vũ
với những pan hâm mộ và phương tiện nghiên cứu hoàng tráng trong các Viện khoa
học. Tất nhiên nó cũng không lệ thuộc vào các đề tài khoa học với kinh phí hàng
chục triệu tiền Việt, hoặc hoàng tráng hơn - đến hàng trăm tỷ Dollar - như cỗ
máy gia tốc hạt của cộng đồng khoa học châu Âu đi tìm Hạt của Chúa. Tất cả
những điều đó chỉ là những yếu tố hỗ trợ.
Để có những phát minh khoa học thì tôi cần phải xác định ngay rằng: Một trong
nhữngyếu tố có tính quyết định cho
sự thành công của một công trình nghiên cứu khoa học, chính là phương pháp
nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu của nhà văn Khánh Hoài.
Về phương pháp nghiên cứu chữ Việt cổ từ trước đến nay có thể phân loại với ba
phương pháp đã thể hiện như sau:
1. Phương pháp dựa trên các di vật khảo cổ - do GS Hà Văn Tấn khởi xướng và đã
tìm ra được một số hình, như là ký tự trên các di vật khảo cổ có niên đại xác định
khác nhau. Nhưng chưa đủ căn cứ để xác định tính hệ thống của chữ Việt cổ.
2. Phương pháp dựa vào các hình khắc cổ trên đá - do một nhà nghiên cứu người
Pháp đã và đang dựa trên hàng nghìn bản in từ đá cổ Sapa và các bãi đá cổ khác
- sau khi tổng hợp và phân loại ông đã xác định được một số motif lặp lại trong
nhiều hình vẽ có thể là một dạng ký tự - tuy nhiên chưa công bố kết quả cụ thể
nào.
3. Phương pháp phỏng đoán chữ Việt cổ còn lại ở Tây Bắc và đi sưu tầm và hệ
thống hóa - phương pháp này do GS Lê Trọng Khánh khởi xướng. Nhưng giáo sư Lê
Trọng Khánh lại cho rằng đó là hệ thống chữ viết của người Tày Thái vì nó thể
hiện ngôn ngữ trong sinh hoạt của người Tày Thái.
Tất nhiên, tất cả những phương pháp này đã thất bại.
Tôi trình bày khái quát nguyên nhân thất bại của ba phương pháp này, như sau:
1/ Phương pháp của giáo sư Hà Văn Tấn, chủ yếu dựa vào sự tìm thấy
hay không những di sản cổ còn lại để xác định hệ thống chữ Việt cổ.
Đây là một phương pháp nghiên cứu lịch sử - được "khoa học công nhận",
nhưng tất nhiên không phải là duy nhất đúng - khá thịnh hành ở khoảng nửa đầu
thế kỷ trước.
Nhưng di sản khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử.
Điều này dễ hiểu! Vì chẳng có lẽ nào vì không có di vật khảo cổ thì lịch sử không
tồn tại. Nhất là những vấn đề lịch sử đã lùi sâu vào quá khứ tính bằng thiên
niên kỷ - Tất nhiên, những di sản cổ ngay cả bằng sắt thép cũng hoàn toàn
...biến mất. Chưa nói đến di sản phi vật thể là hệ thống chữ viết của một dân
tộc bị đô hộ hàng ngàn năm. Ngay cả trường hợp tìm thấy một di sản vật thể cổ
có thể mô tả một sự kiện lịch sử nào đó thì cũng chỉ có thể coi đó là một sự
hiện hữu khách quan và tự nó không nói lên điều gì. Nhà nghiên cứu với bằng
chứng di sản vật thể khảo cổ tìm được, vẫn cần một hệ thống luận cứ hợp lý tối
thiểu, để giải thích sự hiện hữu của di sản đó trong mối liên hệ với môi trường
lịch sử mà nó đã ra đời.ởđâuđó
trong cõi trần gian này.
Điều kiện cần cốt lõi của phương pháp này là: Phải tìm thấy những di vật khảo
cổ.Không tìm thấy thì bế tắc vàgiáo sư Hà Văn Tấnđã không tìm thấy.
2/Phương pháp dựa vào các hình khắc cổ trên đá - dựa trên hàng
nghìn bản in từ đá cổ Sapa và các bãi đá cổ khác do một nhà nghiên cứu người
Pháptriển khai. Ông đãtổng hợp và phân loạivà xác định được
một số motif lặp lại trong nhiều hình vẽ có thể là một dạng ký tự - tuy nhiên
chưa công bố kết quả cụ thể nào.
Phương pháp này của nhà nghiên cứu người Pháp thực chất cũng chỉ là sự sưu tầm
di vật khảo cổ dưới một hình thức khác. Nó vẫn đòi hỏi khả năng giải mã để có
thể đọc và phục hồi lại toàn bộ hệ thống chữ Việt cổ. Nhưng với hàng ngàn năm
đã trôi qua, ngôn từ của một dân tộc cũng biến đổi theo thời gian. Ngay cả hệ
thống ký tự Ai Cập cổ đại trong Kim Tự Tháp, hiện hữu rõ ràng như vậy, nếu
không tìm được mối liên hệ với 6 ký tự liên quan đến chữ viết hiện đại thì con
người của nền văn minh hiện nay vẫn chưa đọc được những bản văn khắc trong các
Kim Tự tháp cổ Ai Cập.
Bởi vậy, cùng chung số phận với phương pháp của giáo sư Hà Văn Tấn - căn cứ
trên di vật khảo cổ - là những di sản vật thể để xác định một giá trị văn hóa
phi vật thể là một sai lầm. Cho nên, việc đi tìm hệ thống chữ Việt cổ của
phương pháp này cũng đi vào bế tắc. Cho dù nó được thực hiện bởi những nhà khoa
học tên tuổi tầm cỡ.
3. Phương pháp phỏng đoán chữ Việt cổ còn lại ở Tây Bắc và sưu tầm và
hệ thống hóa -củaGS Lê Trọng Khánh.
Đây là phương pháp có một định hướng gần đúng hơn cả - so với hai phương pháp
trên. Bởi vì với một di sản phi vật thể là hệ thống chữ Việt cổ thì nó phải
được tìm hiểu và khám phá từ những giá trị di sản phi vật thể. Do đó, giáo sư
Lê Trọng Khánh thành danh trong việc truy tìm hệ thống chữ Việt cổ. Nhưng sự
thành công của giáo sư chỉ dừng lại ở đây. Chính vì mặc dù có một phương pháp
gần đúng, nhưng giáo sư lại không có một hệ thống luận cứ đủ thuyết phục để
tiếp tục tiến tới mục đích cuối cùng. Giáo sư Lê Trọng Khánh cho rằng đó là hệ
thống chữ viết của người Tày Thái vì nó thể hiện ngôn ngữ trong sinh hoạt của
người Tày Thái.
Vấn đề được đặt ra là: Vì sao dân tộc Tày Thái - trong điều kiện chịu chung
cảnh Bắc thuộc hàng ngàn năm như Việt tộc và là một bộ phận thiểu số trong cộng
đồng Việt cổ lại có chữ viết, còn dân tộc Việt cổ lại không có? Nhu cầu nào và
xuất phát từ một hệ thống quản trị xã hội nào để dân tộc Tày Thái có hệ thống
chữ viết riêng của mình?
Nhưng với nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã đi tìm một phương pháp hoàn toàn khác.
Phương pháp nghiên cứu của ông có tính kế thừa từ những phương pháp trên với
những tư liệu cực kỳ phong phú. Phương pháp của ông có nhiều điểm tương đồng
với giáo sư Lê Trọng Khánh, là đi tìm nguồn gốc của chữ Việt cổ lưu truyền
trong dân gian, qua những giá trị di sản phi vật thể. Do đó, có sự ngộ nhận ông
đi theo con đường của giáo sư Lê Trọng Khánh. Nhưng điểm nhấn và cũng là sự
khác biệt của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền với các phương pháp trên chính là ông
đã tổng hợp những dữ kiện về chữ Việt cổtrongmột hệ thống luận cứ
chặt chẽ - dựa trên những tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học được
coi là đúng - trong chuyên ngành khoa ngôn ngữ học hiện đại - để xác định bộ
chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương dựng nước.
Tiêu chíkhoa học cho một lý thuyết,
một giả thuyết, một phương pháp...vv....nhân danh khoa học, là những giá trị
thẩm định và phản biện khoa học hoàn toàn khách quan, được hình thành trong
lịch sử phát triển của khoa học hiện đại và được sự thừa nhận bởi những nhà
khoa học thực sự. Nhà nghiên cứu không có"chuyên môn
sâu"như ông Đỗ Văn Xuyền, không
thể tự đặt ra tiêu chí khoa học của riêng ông, để tự thỏa mãn những luận cứ của
ông với "lòng yêu nước".
Tiêu chí khoa học chính là cái mốc chuẩn để phân biệt tính khoa học và phi khoa
học. Đây cũng chính là cơ sở để thừa nhận hay phủ nhận những luận cứ của nhà
nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Do đó, để phản biện và chứng minh sự sai lầm trong hệ
thống luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền thì phải căn cứ vào chính những
tiêu chí khoa học được ông đề cập, hoặc những tiêu chí khoa học mà ông Xuyên bỏ
qua để chỉ ra sai lầm của ông. Nhưng có vẻ như những người phủ nhận công trình
nghiên cứu của ông Xuyền, chưa đủ tầm để thực hiện điều đó. Mặc dù học vị của
họ cũng rất đáng kính nể.
Từ nhiều năm nay, công trình nghiên cứu của ông Xuyền đã phổ biến rộng rãi,
nhưng chưa có dù chỉmột bài viết có
tínhhệ thống với những luận cứ chặt
chẽ, thể hiện tính"chuyên môn sâu"của những học giả đáng kính, phản biện những luận điểm
của ông Xuyền?!
Ông đã chứng minh sự tồn tại của một hệ thống chữ Việt cổ thỏa mãn
đầy đủ tiêu chỉ khoa học cần có cho một hệ thống chữ viết của một nền văn minh.Từ
cơ sở tiêu chí này so sánh với chữ Việt cổ liên hệ với ngôn ngữ trên các vùng
miền của người Việt hoàn toàn thỏa mãn.
Những người phủ nhận luận cứ của nhà văn Khánh Hoài lạm dụng khá nhiều từ khoa
học. Nhưng họ lại không định nghĩa được chính khái niệm mà họ sử dụng. Thí dụ
như giáo sư viện sĩ Phan Huy Lê đặt vấn đề về"cơ sở khoa
học"trong hệ thống luận cứ của
nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Nhưng vấn đề được đặt ra là: Thế nào nội dung của
'cơ sở khoa học'.Tôi nghĩ:
Những nhà nghiên cứu vốn không có"chuyên môn sâu",như ông Xuyền và cả tôi, và có lẽ cũng rất nhiều người
khác, cần được hiểu nội dung thế nào là"cơ sở khoa
học", để căn cứ vào đấy tự thẩm định?!
Hoặc giả như PGS. TS Tống Trung Tín phát biểu:“Tôi đánh giá đây
là một cách đọc theo phương pháp khoa học là… tưởng tượng. Nghĩa là nó không
mấy chặt chẽ và hơi võ đoán”- thì chí
ít ông cũng cần phải đưa ra cơ sở nào để ông có một "đánh giá" như
vậy chứ nhỉ?!
Tóm lại, tôi có thể kết luận rằng: Sự phủ nhận một cách vội vã là thái độ vô
trách nhiệm đối với lịch sử văn hóa của dân tộc, ít nhất là do thiểu hiểu biết.
Ý nghĩa của việc tìm ra Chữ Việt cổ.
"Để xác định một nền văn minh thì nó phải có hệ thống chữ viết
để duy trì và phát triển nền văn minh đó".Đó là một trong những tiêu chí khoa học để thẩm định
một nền văn minh đã tồn tại trong lịch sử.
Cội nguồn dân tộc Việt thời Hùng Vương, được ghi nhận trong tâm khảm của những
người Việt Nam sau hàng ngàn năm Bắc Thuộc, bằng những truyền thuyết và huyền
thoại và những dòng viết ngắn ngủi trong chính sử một cách mơ hồ. Đó chính là
cái nguyên cớ để vào những thập niên cuối thế kỷ XX, những người có học vị đã
đặt lại vấn đề cội nguồn lịch sử dân tộc nhân danh khoa học. Nhưng những lập
luận của họ - do chỉ dựa trên sự hoài nghi về cội nguồn lịch sử dân tộc - nên
không hề tỏ ra có một luận cứ sắc xảo. Mặc dù vậy, lợi dụng học vị họ vẫn ngang
nhiên kết luận về Thời Hùng Vương cội nguồn lịch sử của Việt tộc, chỉ tồn tại"khoảng
từ thế kỷ thứ VII trước CN"và chỉ"cùng
lắm là một liên minh bộ lạc"với
những người dân"ở trần đóng khố".Địa bàn hoạt động của nước Văn Lang - theo họ - chỉ
vỏn vẹn ở"đồng bằng Bắc Bộ".Chúng tôi đã bác bỏ những luận điểm của họ, rõ ràng,
minh bạch trên web của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương.
Một trong những luận điểm trong việc phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống
Việt chính là việc không tìm thấy một hệ thống chữ viết để chứng tỏ sự tồn tại
một nền văn hiến đầy tự hào của người Việt. Đây cũng chính là tiêu chí khoa học
để xác định sự tồn tại của một nền văn minh. Nhưng đó là một yêu cầu khám phá,
tìm hiểu và phục hồi, chứ không phải là một luận điểm phủ định - ngay cả như
không tìm thấy hệ thống chữ Việt cổ.
Nhưng thật may mắn! Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã xác định được hệ thống chữ
Việt cổ. Đây chính là một điểm nhấn sắc sảo trong việc xác định cội nguồn lịch
sử Việt tộc với gần 5000 năm văn hiến. Sự khám phá của nhà văn Khánh Hoài xác
định "một nền văn minh thì nó phải có hệ thống chữ viết để duy
trì và phát triển nền văn minh đó".Bởi
vậy, nên"hầu hết những nhà khoa học trong nước"và"cộng đồng khoa học thế
giới"phủ nhận Việt sử gần 5000
năm văn hiến, đã có những cố gắng phi lý để phủ nhận thành tựu xuất sắc của
ông. Tôi có thể thẳng thắn mà phát biểu như vậy. Nhưng thật đáng tiếc cho họ - những
nhà khoa học với bằng cấpđáng kính
- vẫnkhông hề có những luận cứ phản
biện đủ minh bạch trước công luận-
dù chỉ là trong một bài viết nghiêm túc-để chỉ ra sai lầm trong hệ
thống luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền.
Tôi nghĩ, nếu những nhà khoa học thực sự có trách nhiệm với cội nguồn văn hóa
sử dân tộc, thực sự có tinh thần khoa học, đủ tính công bằng và đủ tự tin vào
khả năng tri thức thể hiện qua học vị của họ cho việc làm sáng tỏ chân lý - thì
- cần tổ chức một cuộc hội thảo tranh luận một cách công khai, minh bạch để xác
định tính chân lý cội nguồn văn hóa sử của Việt tộc, trong đó bao gồm một thành
tố quan trọng là hệ thống chữ Việt cổ của nhà văn Khánh Hoài. Điều mà chúng tôi
luôn xác định rằng: “Việt sử trải gần
5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương Tử và là cội nguồn
của nền văn minh Đông phương một thời huyền vĩ”.
=============================
*Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán,các
hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năngvà kèm theo đó là
những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các
cộng đồng và các nhóm và trong một số trường hợp là cá nhân công nhận là một
phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di
sản văn hóa phi vật thể được cộng đồng, các nhóm không ngừng tái tạo để thích
nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch
sử của họ, đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó
khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con
người.
Định nghĩa "di sản văn hóa phi vật thể của cơ quan văn hóa
Liên Hiệp Quốc
|