'Áo giáp chở che ngàn năm bền vững'
Đi xa quê, tôi lại bồi hồi mỗi khi nghe trên đài tiếng nói Việt Nam vang vang giọng ca của Kiều Hưng: "Hà Tây! Cửa ngõ Thủ đô, áo giáp chở che ngàn năm bền vững".
Từ Hà Nội xuôi theo quốc lộ 1 A về hướng Nam chừng 20 Km là tới ga Chợ-Tía. Rẽ vào đường 73 đúng Km thứ 9 là tới quê tôi.
"Khu cháy quê tôi nước bạc đồng chiêm
Có dòng sông Nhuệ chảy quanh xóm làng..."
Câu hát ấy cứ ngân nga mãi trong tâm chí tôi suốt từ những ngày còn
cắp sách đến trường. Sau này, khi đã đủ khôn lớn để hoà mình vào đời, đi
đây đó xa quê, tôi lại bồi hồi, mỗi khi nghe trên đài tiếng nói Việt
Nam vang vang giọng ca của Kiều Hưng - người con nổi tiếng của Phú Xuyên
quê tôi:
"Hà Tây! Cửa ngõ Thủ đô, áo giáp chở che ngàn năm bền vững".*
Không ngờ 40 năm sau, tôi được gặp ông ở Berlin, trong một lần họp
mặt những người con tha hương "Quê lụa". Ông bảo: "Nhớ quê da diết". Khi
này, Kiều Hưng đã ngoài 70 tuổi.
Nếu tính tròn hai vụ lúa một năm, thì tôi chính thức ở quê làm ruộng
có ba năm. Nhưng xa quê đã 40 năm có lẻ, vậy mà bây giờ tôi vẫn còn nhớ
như in đám rêu bám trên chiếc cầu ao làng; chỗ rễ đa nổi vồng lên, nơi
các bác trong đội cày vẫn hay buộc trâu. Rồi nhớ cả bà cụ Thô hàng xóm,
hay đứng trên đống rơm chửi mất gà...
Vậy mà một cái làng ngoại ô đẹp như tranh vẽ, có đồng cỏ xanh rờn với
cánh rừng sồi thơ mộng ở nước Đức, lại chẳng đọng lại trong tôi một nỗi
nhớ nào. Chẳng ít gì, những 5 năm trời tôi đã sống ở nơi đó. Phải
chăng, đấy không phải người làng mình? Không phải đất quê mình?
|
Sông Nhuệ ngày nay. Ảnh: Người Lao động
|
Trong chúng ta, ai cũng có quê hương và ai cũng có quyền tự hào về
làng quê của mình. Từ ngàn đời nay, mỗi khi nghĩ về làng về xóm, thì đó
bao giờ cũng là nơi sưởi ấm tấm lòng những người con, được sinh ra từ
làng và lớn lên từ hạt lúa, củ khoai của làng. Dù rằng, không phải bất
cứ ai khi bước chân ra đi, cũng đều có những kỷ niệm êm đềm về nó.
Vốn là đồng chiêm trũng, ngày xưa lúa chỉ cấy được một vụ nên người
dân quê tôi sống rất cực nhọc. "Giáp hạt" là một khái niệm gây nỗi kinh
hoàng cho mỗi gia đình dân cày ngày ấy. Trong khi chờ bông lúa ngoài
đồng chín hạt, họ phải ăn ngô, ăn khoai trừ bữa. "Giáp" nữa, họ phải nấu
cả cháo cám để ăn. Bọn trẻ chúng tôi, buộc phải còi cọc lớn lên trên
mảnh đất "nước mặn đồng chua" đầy gian nan khốn khó này.
Không có nghề phụ, dân quê tôi chỉ biết trông vào ba sào ruộng ngập
trắng một thứ nước pha phèn đỏ quạch. Nhưng người nông dân đổ bao nhiêu
mồ hôi cho đồng ruộng, thì họ cũng sẽ nhận lại được tất cả những gì mà
thiên nhiên dâng tặng. Đang đói, vào vụ gặt bưng được bát cơm gạo mới
trắng ngần, thơm phức lên ăn, nhiều người rơi nước mắt.
"Thực đơn" trong bữa cơm của dân quê hồi ấy thường là có đĩa cá kho.
Nếu vào đúng vụ mạ chiêm, thì còn có cả đĩa châu chấu rang ngậy bát, cà
pháo, rau muống luộc (nếu là rau hái dưới ao sau cơn mưa rào đêm trước
thì càng tuyệt vời) và cuối cùng là món "truyền kiếp" của người nông
dân: tương.
Một chum tương đội chiếc nón mê rách, đứng lặng lẽ trong mưa nắng nơi
góc sân, luôn là nét chấm phá đặc sắc cho căn nhà nông dân vùng Bắc bộ
quê tôi hồi ấy. Bữa cơm có rau muống luộc chấm với nước tương mới, ăn
xong lâu rồi vẫn cảm được cái vị ngọt lịm ở nơi cuống họng. Có ai đâu
ngờ, bữa cơm quê đạm bạc ngày ấy, đã trở thành điều mong ước của gia
đình tôi sống trên đất Đức ngày hôm nay.
Vào mùa thu hoạch, đồng đất lại trả những bông lúa óng vàng và bát
cơm trắng ngần cho người nông dân một nắng hai sương khó nhọc. Nhưng để
đưa được hạt thóc về nhà, vào vụ chiêm, người nông dân phải chịu trận
dưới cái nắng hè oi ả, những tia nắng hè khét lửa.
Qua năm tháng nắng mưa ngoài đồng, lưng áo của ai cũng đọng trắng
muối mồ hôi. Khi đi chăn trâu, tôi thường mang cho mẹ một siêu nước chè
tươi. Trước khi quay lưng, tôi còn kịp nhìn thấy những giọt mồ hôi trên
trán mẹ rơi thánh thót.
Qua khỏi cơn giáp hạt, đến thời có cơm gạo mới no nê, bọn trẻ chúng
tôi đứa nào cũng "trơn lông đỏ da" mặt mày hớn hở. Bố mẹ may cho tôi một
chiếc quần xanh sĩ lâm và một chiếc áo sơ mi bằng vải phin trắng Nam
Định. Năm ấy tôi lại được thưởng một chiếc khăn quàng đỏ, do các bạn
thiếu niên tiền phong "Ten-lơ-man" Cộng hòa dân chủ Đức gửi tặng. Tôi
tưởng không còn sung sướng gì hơn.
Đó là vào "những năm bom Mỹ trút trên mái nhà". Ngày ấy mỗi khi đi
học, chúng tôi phải đội mũ rơm và khoác trên mình một mảnh nguỵ trang
bằng vải xô đã được nhuộm xanh bằng lá mướp.
Xóm của tôi tên là xóm Cầu, hướng Tây của xóm có một cái giếng đất.
Cây bàng thấp nơi bờ giếng là vị trí thuận tiện nhất cho bọn trẻ chúng
tôi theo dõi những trận đánh của bộ đội ta với máy bay Mỹ, mỗi khi chúng
liều lĩnh bay vào vùng trời Thủ đô.
Từ trên cây bàng bên bờ giếng đất, chúng tôi quan sát được toàn cảnh
trận đánh theo mặt phẳng. Lửa khói ngút trời. Tiếng bom rền lẫn trong
tiếng đạn pháo cao xạ nổ ròn rã.
|
Học trò đội mũ rơm đi học thời "những năm bom Mỹ trút trên mái nhà"
|
Sau này đi bộ đội, đối mặt trực tiếp với những cỗ máy giết người của
địch, tôi mới thấy được tính chất khốc liệt, tàn bạo của chiến tranh.
Lúc ấy bọn trẻ chúng tôi chẳng biết sợ là gì, chỉ thích ra giếng đầu
làng để ngồi xem "chiến tranh" một cách vô tư mê mải.
Thời gian, bao giờ cũng giống như một cỗ xe nhỏ chở đầy báu vật, nó
lặng lẽ lăn bánh tới ngày đủ lớn, cho trang lứa tuổi tôi lên đường nhập
ngũ. Bố tôi ngồi lặng im cả buổi. Điếu thuốc lào trên tay, nhưng cháy
hết cái đóm này đến cái đóm khác, ông lại dụi đi không hút. Mẹ và chị
tôi thì khóc cho tới khi xe chở chúng tôi khuất hẳn sau dặng cây xà cừ
được trồng ven con đường 73 lở loét.
Thày Sơn chủ nhiệm đưa các bạn trong lớp đến đưa tiễn. Từ xa nhìn
lại, những chiếc khăn mùi-soa màu trắng của các bạn nữ cứ vẫy mãi - như
một đàn chim hoà bình, đang giang cánh tung mình vào trời không bao
la...
Xóm Cầu nhỏ bé của tôi đã có 5 thanh niên "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước", thì 3 người nằm lại ở chiến trường. Họ đã ngã xuống như những
người anh hùng và mãi mãi hiến dâng mùa xuân thứ 18 - mùa xuân đẹp nhất
của cuộc đời mình - cho Tổ Quốc, cho Quê hương.
Đã hơn 40 năm trôi qua kể từ đó. Hôm nay trở về, nhiều cảnh nhiều
người quê tôi đã "vật đổi sao dời" theo nhịp sống mới của cả nước. Nhưng
cây đa, bến nước, sân đình vẫn còn đó; lối mòn vào nhà vẫn còn đây và
dòng Nhuệ giang vẫn lặng lẽ trôi xuôi, để lại bên xóm tôi một con đò
trên bến. Hệt như người con gái xưa, trước giờ chia tay đã từng hẹn ước:
mãi mãi ngàn năm chung thủy đợi chờ...
Nguyễn Công Tiến
|