Thư trao đổi với BBT website Họ Đỗ Việt Nam
Kính
gửi ông Hòa,
Mấy
hôm nay trên diễn đàn Quốc hội đang thảo luận về Luật GD sửa đổi và Luật GD đại
học sửa đổi. Hầu như mọi người dân đều
quan tâm và chú ý theo dõi các nội dung thảo luận, vì đó cũng là chuyện của tất
cả mọi nhà. Nhưng thật ra thì trước đó, từ cuối năm 2017 và đầu năm 2018, trên
nhiều diễn đàn xã hội và diễn đàn GD đã có khá nhiều cuộc bàn thảo và góp ý về
chủ đề này, sau khi Bộ GD&ĐT công bố bản dự thảo sửa đổi lần này. Cùng góp
sức với cả nước, cộng đồng HĐVN chúng ta cũng đã và đang cố gắng để được góp một
phần nhỏ trong đó, tuy lặng lẽ và còn khiêm tốn. Chúng tôi được biết có nhiều
Ban Khuyến học dòng họ đã tập hợp được một số bà con hội viên Khuyến học của
dòng họ, nguyên là cựu giáo chức hoặc cán bộ khoa học nghỉ hưu, để nêu lên yêu
cầu thảo luận góp ý này. Sự hưởng ứng sốt sắng của bà con đã đem lại một số kết
quả ban đầu, các nội dung góp ý đã được chuyển lên cấp trên. Chúng tôi may mắn
được tiếp cận với một số góp ý này của bà con ta, và thấy nhiều nội dung khá tốt.
Nhân dịp QH đang tiếp tục thảo luận về chủ đề trên, chúng tôi xin trích
một vài nội dung góp ý nói trên của bà con HĐVN, và đề nghị BBT thẩm định để có
thể chuyển vào nội dung website của chúng ta (và có thể cả Bản tin hoạt động
thường kỳ). Mục tiêu của việc làm này là để cộng hưởng với tiếng nói chung của
xã hội, của toàn dân trước một vấn đề Quốc sách, thể hiện rõ hơn trách nhiệm
công dân của cộng đồng HĐVN chúng ta. Ngoài ra, đây cũng là dịp để bà con được
củng cố lại, được suy ngẫm thêm những hiểu biết cơ bản về GD&ĐT, một lĩnh vực
quan trọng của đời sống xã hội, liên quan đến mọi gia đình, mọi dòng họ, không
có ai có thể bàng quan. Và từ đó còn có thể gợi ra nhiều ý tưởng mới khác nữa
có ích cho GD&ĐT, cho GD gia đình, cho Khuyến học dòng họ, mà bà con ta có
thể tiếp tục đóng góp thêm, có thể kiểm nghiệm và vận dụng vào thực tiễn. (Tất
nhiên là phải đi từ sự khởi động của lãnh đạo Hội đồng dòng họ và sự hướng dẫn
của BBT).
Những nội dung chúng tôi tập hợp trong bài viết gửi kèm tất nhiên là
chưa đầy đủ, chưa toàn diện và chưa đủ độ sâu sắc cần thiết, nhưng đều thể hiện
tâm huyết của bà con ta. Nếu đề xuất này được các ông chấp nhận thì mong các
ông biên tập lại và chia thành nhiều kỳ, hoặc chỉ dùng phần nào thích hợp, để
đăng tải cho trang mạng.
Xin trân trọng cảm ơn và kính chúc sức
khỏe !
12/6/2018 – Hữu Minh
Cộng đồng Họ Đỗ Việt Nam đồng
hành
với GIÁO DỤC đổi mới !
Phần 1- Cùng thảo luận vê Luật Giáo Dục sửa đổi.
Hữu Minh
(Dòng
họ Đỗ Hữu – Hậu Lộc, TH)
1- Về
Mục tiêu Giáo dục.
Dự thảo luật giáo dục sửa đổi nêu : “Mục
tiêu GD là phát triển toàn diện con người Việt Nam, về đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân; phát huy tốt nhát tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu hội nhập quốc tế”.
Có lẽ đây là một phác thảo mẫu hình Con
Người Việt Nam Mới mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế
của đất nước đòi hỏi từ sự đáp ứng của nền giáo dục (GD), và đối tượng trực tiếp đầu tiên phải hướng tới là đông đảo người học.
Nội dung mục tiêu GD được nêu thành 3 phần (cách
nhau bởi dấu ;) nhằm xác định một cách đầy đủ
các đòi hỏi với Con Người Việt Nam Mới. Phần trước tiên
là nêu ra những đòi hỏi chung nhất và toàn diện nhất (... là phát triển toàn
diện con người Việt Nam, về đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội). Đó là
những điều kiện hợp thành (thành tố) tối thiểu và cơ bản nhất tạo nên Con Người
Mới, để chủ thể GD (người học) sau quá trình được GD có thể lập thân, lập nghiệp và phục vụ cộng đồng. Hai phần tiếp theo là sự
nhấn mạnh thêm những điểm cốt lõi và
bổ sung của các đòi hỏi chung
(thành tố) đã nói trên (nhân cách, phẩm chât, năng lực, khả năng sáng tạo,...)
để các chủ thể có thể tiếp tục nâng cao
và phát huy tốt đồng bộ các thành tố đó.
Song : Một
số khái niệm được sử dụng ở đây chưa được cân nhắc chuẩn xác nên có thể gây ra
nhiều cách hiểu lan man, không giống nhau, chưa qui tụ về một tiêu điểm. Cụ thể
là có nhiều khái niệm thành phần mà nội hàm lại không độc lập tương đối, có sự trùng lặp một phần, hoặc
bao hàm trong nhau, và lại có cả một số khái niệm đang được hiểu khác nhau,....
Do đó xin đề nghị thay đổi lại cho hợp lý hơn như sau :
1.1-
Nên thay khái niệm tri
thức bằng khái niệm trí tuệ (trong diễn đạt
mục tiêu
GD) thì đúng hơn, và diễn đạt thành : Mục tiêu giáo dục là phát triển toàn diện
con người Việt Nam, về đạo đức, trí tuệ,
sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, ...
Vì cái
lẽ sau đây : Tri thức (những hiểu biết) đúng là một nhu cầu, một điều kiện để
con người có thể sống, lập thân, lập nghiệp, mà tri thức thì mênh mông vô hạn,
bao chứa nhiều lĩnh vực. Nhưng muốn có được tri thức thì trước hết con người phải
có công cụ tư duy, đó là trí tuệ (khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình
độ nhất định). Có thể ví trí tuệ là cái “cần câu” để “câu” được tri thức. Có
được trí tuệ thì ắt sẽ tìm được tri thức, về bất cứ lĩnh
vực nào mà con người cần đến.
Nhưng không rõ vì lý do gì mà trong
các phần sau, văn bản luật lại dùng khái niệm trí tuệ thay cho tri thức, như
tôi vừa đề nghị trong phần mục
tiêu GD ?
2.1- Nên thay
khái niệm lý tưởng chủ nghĩa xã hội bằng khái niệm mục tiêu tiến bộ xã hội, và diễn
đạt thành ... , trung thành với mục tiêu
độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội,
... Vì cái lẽ sau đây :
Lý thuyết
chủ nghĩa xã hội (CNXH) ra đời đã gần 2 thế kỷ (1848, từ Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản), qua các biến động kinh tế - xã hội – chính trị trên phạm vi toàn cầu thì đến nay nó không còn được
coi là một lý thuyết phát triển duy nhất có sức thuyết phục mạnh mẽ và rộng khắp
như trước đây nữa, và càng
không được chấp nhận là Lý tưởng,
tức là mục đích cao nhất và tốt đẹp nhất nữa ! Khái niệm CNXH đang được hiểu khác nhau và được hiện thực hóa không giống nhau, không
đúng như lý thuyết ban đầu nữa, kể cả ở Việt Nam. Cái lý thuyết phổ quát hiện
nay là Tiến bộ xã hội (giầu, dân chủ, công bằng, văn minh, phát triển bền vững,
...) đang có sức cổ vũ và điều chỉnh định hướng phát triển cho hầu hết các quốc
gia, kể cả Việt Nam, chứ không phải là lý tưởng CNXH mà chúng ta nói. Thêm nữa, gọi là mục tiêu thay cho lý tưởng thì thực tế và khả thi
hơn, dễ nghe hơn chứ không gượng gạo. Chúng ta nêu lý tưởng CNXH trong mục tiêu
GD Việt Nam là chưa phù hợp với xu thế chung trong hội nhập quốc tế về GD. Ngay
người dân Việt Nam cũng chưa hiểu được thấu đáo, chưa thể đồng tình, huống chi bạn bè thế giới khi
họ cần tìm hiểu, nghiên cứu về GD Việt Nam !
3.1- Nên sắp xếp lại các khái
niệm được nêu tiếp theo để chỉ các thành tố khác và các thành tố bộ phận của
con người mới mà mục tiêu GD đang xác định : nhân cách, phẩm chất, năng lực,
tiềm năng, khả năng sáng tạo.
Ở đây đang có một sự lẫn lộn nội hàm
các khái niệm nêu trên, chưa phân biệt được khái niệm nào là bao trùm, khái
niệm nào là bộ phận.
Chúng ta cần thống nhất lại cách
hiểu phổ thông về các khái niệm này trong văn bản luật như sau :
Phẩm
chất : là cái làm nên giá trị (có ích, có ý nghĩa, đáng quý), ở đây là về mặt GD đối với một con người. Ví dụ phẩm chất về trí tuệ, phẩm chất về đạo
đức,... Đây không phải là một khái niệm chỉ thuộc phạm trù đạo đức, như nhiều
người đang hiểu nhầm lẫn. Ở các phần sau của văn bản luật chúng ta vẫn bắt gặp lại khái niệm phẩm chất, nhưng không được sử dụng đúng như nội hàm nêu trên ?
Nhân
cách : là tư cách cá nhân của con người, tức là cách ăn ở, cách cư xử, biểu
hiện phẩm chất đạo đức của con người. Theo cách hiểu này thì nhân cách là thuộc phạm trù đạo đức, nhưng đó không phải là nét nổi trội tiêu biểu cho đạo đức, nên không cần phải nhấn mạnh thêm như văn bản.
Nhưng còn có một cách hiểu khác nữa về
Nhân cách mà nhiều nhà giáo
dục cũng đã có bàn đến và sử dụng. Đó là cách hiểu và vận dụng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, khi Người bàn về GD. Theo đó thì nhân cách là sự tổng hòa,
gắn kết giữa Đức (đạo đức) và Tài (năng lực) trong mỗi con người, và đó mới chính là sản phẩm cơ bản và tổng thể của GD. Với cách hiểu này thì Nhân cách có nội hàm cơ
bản hơn, bao trùm hơn so với cách hiểu thứ 1, nó giữ vai trò trung tâm trong
mục tiêu GD, và mới đáng nhấn mạnh thêm.
Vậy thì trong văn bản luật này khái
niệm Nhân cách được hiểu và sử dụng theo nội hàm nào ?
vì ở các phần sau chúng ta vẫn gặp lại khái niệm trên, trong văn cảnh không giống
hoàn toàn như ở phần mục tiêu GD.
Năng lực : là khả năng thực hiện tốt một loại hoạt
động nào đó, tức là có đủ điều kiện về phẩm chất tấm - sinh lý, về trình độ
chuyên môn (kiến thức, kỹ năng ...) để đáp ứng tốt được đòi hỏi của hoạt động
đó.
Tiềm năng : là năng lực còn tiềm
ẩn, chưa bộc lộ ra, ...
Năng lực sáng tạo (không nên gọi là
khả năng sáng tạo vì sẽ gây nhiễu khái niệm) :
là năng lực tạo ra dược những giá trị mới
về vật chất hoặc tinh thần. Đây
là loại năng lực đặc biệt, nổi trội, đáng quý nhất.
Hai khái niệm Tiềm năng và Năng lực
sáng tạo nên coi là khái niệm bộ phận của khái niệm Năng lực, và có thể không
cần phải nhấn mạnh thêm về tiềm năng. Nhưng mặt khác, chúng
ta lại nên bổ sung kèm theo khái niệm năng lực sáng tạo
là năng lực tự học, vì năng lực tự
học mới là cái gốc đẻ ra năng lực sáng tạo và các năng lực khác (như trong NQ
29/TW về Đổi mới căn bản và toàn diện GD&ĐT cũng đã nêu như
vậy) .
Không chỉ riêng trong phần mục
tiêu GD, trong các phần khác cũng có hiện tượng tương tự về khái niệm và thuật
ngữ. Vì vậy trong văn bản luật nên có (nếu chưa có) phụ lục giải thích thuật
ngữ đã được sử dụng. Và quan trọng là chỉ được dùng những khái niệm có nội hàm
chuẩn xác và đã được hiểu thống nhất.
Ở đây xin đề nghị sắp
xếp lại sự diễn đạt phần Mục tiêu GD. Tôi đề nghị 2 cách diễn đạt lại như sau :
Cách thứ nhất, nếu chỉ coi Nhân
cách là một đòi hỏi bình thường (tư cách cá nhân, như cách hiểu dân gian) thì
diễn đạt lại MTGD là :
Mục tiêu giáo dục là phát triển toàn diện con người
Việt Nam, về đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành
với mục tiêu chung độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; hình
thành và bồi dưỡng năng lực và một số phẩm chất cơ bản; phát huy tốt nhất năng
lực tự học suốt đời và năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quóc và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Cách thứ hai, coi Nhân cách là
một đòi hỏi căn cốt nhất, là một thành tố trung tâm của MTGD (là sự tổng hòa,
gắn kết chặt chẽ giữa Đạo đức và Năng lực, như cách hiểu của chủ tịch HCM) thì
diễn đạt lại MTGD là :
Mục tiêu GD là tạo dựng Nhân
cách cho con người Việt Nam, trung thành với mục tiêu chung độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội; được phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, thẩm
mỹ và nghề nghiệp; hình thành và bồi dưỡng một số phẩm chất cơ bản, và đặc biệt
là phát huy được tốt nhất năng lực tự học suốt đời và năng lực sáng tạo của mỗi
cá nhân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu hội nhập quóc
tế.
Mục tiêu GD đã luôn được coi là nội dung cốt
lõi nhất, chủ yếu nhất, quan trọng nhất của Luật GD. Đây là cơ sở lý luận, là điẻm
xuất phát để xác định các yếu tố khác của nền GD : nội dung, phương pháp, cơ
cấu hệ thống, đội ngũ, quản lý nhà nước, đánh gía, …Đây cũng là căn cứ chính yếu
để soi xét lại, đối chiếu lại những nội dung then chốt của Nghi quyết 29/TW về
đổi mới căn bản và toàn diện GD&ĐT mà chúng ta đang triển khai. Vì vậy
chúng tôi coi đây là một nội dung trọng
tâm trong thảo luận góp ý về Luật GD sửa đổi lần này.
2- Về hệ thống giáo dục quốc dân.
Văn bản luật đã trình bày hệ thống giáo dục quốc dân từ GD mầm
non lên đến GD đại học
là theo tiêu chí trình
độ (trình độ GD, trình độ đào tạo). Nhìn tổng thể thì có
thể xem là hợp lý, nhưng đó là về mặt hình thức. Còn nếu xem xét bản chất hơn, tức là nhìn vào tính chất, vào mục tiêu đào tạo của các ngành/bậc/cấp học thì cần phân biệt hai
mảng với hai mục tiêu khác nhau : GD phổ thông (dân trí) và
GD nghề nghiệp (nhân lực). Nếu nhìn thêm vào hai ngành/bậc học cao nhất (GD nghề nghiệp và GD đại học) thì lại càng thấy rõ tính hình thức của sự phân
bậc này, vì đã làm lu
mờ hẳn tính chất nghề nghiệp của GD đại học. Thực tế là cả hai ngành học này đều có mục tiêu đào tạo là nguồn nhân lực, tức đào tạo nghề nghiệp,
nội dung đào tạo đều mang đậm tính chất nghề nghiệp. Nếu tách ra như vậy thì buộc phải hiẻu GD đại học không phải là GD nghề nghiệp, rất vô lý ! Nội dung đào tạo của trường đại học nào về bản chất mà chả là đào tạo nghề nghiệp, dù trường đó có thiên về nội dung hàn lâm để ra làm nghề nghiên cứu khoa học. Sự phân tách ra thành hai ngành học riêng nhưng
lại cùng có một mục tiêu đào tạo nghề nghiệp còn gây ra khó khăn lớn trong chỉ
đạo, quản lý chuyên môn, nhất là khi tính đến yêu cầu liên thông giữa các trình
độ.
Đừng vì trót phân công trách nhiệm
quản lý nhà nước với mảng các trường nghề cho Bộ LĐ,TB&XH
mà lại cố tách riêng thành hai ngành đào tạo biệt lập là GD nghề nghiệp và GD đại học, rất hình thức như
trong văn bản luật ! Đó là chưa kể
đến những rắc rối khác từ sự phân công này, ví dụ đưa trình độ cao đẳng vào GD
nghề nghiệp, khác với thông lệ quốc tế là coi CĐ là một bậc đào tạo đại học.
2.2- Nên chăng, vận dụng lại kinh nghiệm của Việt Nam trước đây và tham
khảo mô hình GD của các quốc gia khác để cơ
cấu lại hệ thống GD quốc dân sao cho hợp lý hơn. Chẳng hạn : GD mầm non
& phổ thông - ứng với Bộ GD,
và GD chuyên nghiệp & đại
học - ứng với Bộ GD chuyên nghiệp (hoặc Bộ GD nghề nghiệp). Hoặc ghép tất tật thành GD&ĐT, có
các bộ phận như đã nêu trên, và quy
chức năng quản lý tất tật về một mối là Bộ GD&ĐT.
Đối với mảng GD phổ thông có thể
học theo Australia : vẫn để hai bậc học là Tiểu học và Trung học, ứng với giai đoạn GD cơ bản, từ lớp 1 đến hết lớp 6 hoặc 7, và giai đoạn GD định hướng nghề nghiệp, từ lớp 7 hoặc lớp 8 đến hết lớp 12
.
3- Quản lý nhà nước về GD.
1.3- Tuy quy định khá chặt chẽ và có vẻ toàn diện
các nội dung quản lý
nhà nước về GD, nhưng chưa nêu rõ và hình như cố ý né tránh nội dung
quản lý về các điều kiện phát triển
của GD, đặc biệt là Tài chính và Nhân lực, nhất là với mảng GD phổ thông trở
xuống ! Tại sao vậy ? Nhà nước lập ra
các cơ quan quản lý GD các cấp, từ Bộ GD&ĐT trở xuống là để thay mặt Nhà
nước thực thi chức năng quản lý này. Nhưng trên thực tế thì quyền hạn của các
cơ quan QLGD các cấp này rất hạn chế, nhất là về tài chính và nhân sự. Không
nói đến mảng GD đại học đã có những quy định khá rõ theo hướng tích cực trong
luật GD đại học sửa đổi. Còn với diện đại trà khá rộng lớn thì chỉ trừ mặt
chuyên môn, còn mọi thứ đều bị chính quyền, có khi còn cả cấp ủy Đảng nữa, thâu
tóm, quyết định. Thử hỏi, hoạt động GD, hay bất cứ hoạt động trong lĩnh vực
nào, muốn phát triển tốt mà các cấp QL chỉ có được trong tay các đường hướng,
chủ trương, chính sách,… còn các điều kiện thì hoàn toàn bị động, phải trông
chờ, xin xỏ, nhất là về hai nguồn lực cơ bản là nhân lực và tài chính ?
Thêm nữa, không kể các cơ sở GD
ngoài công lập, tuy luật có nêu yêu cầu tăng cường quyền tự chủ trong QLGD (nói
chung, chứ không riêng với GD đại học), nhưng làm sao mà thực hiện cho được khi
trong tay các cấp QL chỉ có các giấy tờ văn bản ?!
Do đó cần đề nghị phải quy định
rõ quyền hạn của cơ quan QLGD các cấp, phải trao cho họ thực quyền thì mới mong làm chuyển biến được công tác QLGD theo đòi
hỏi đổi mới GD (còn chuyện chống tham nhũng quyền lực và tiền tài trong QLGD
lại là chuyện khác - chuyện cơ chê QL lạc hậu, chuyện lựa chọn cán bộ QL cẩu
thả, …!). Cần phải luật hóa quy trình sử dụng tài chính và quản lý nhân sự theo
hướng chính quy, bài bản, chống tùy tiện theo từng địa phương.
Cũng cần phải nói thêm về điểm
mới vừa nêu ở trên : Tăng cường quyền tự chủ trong QLGD (mà hình như ở luật cũ
chưa có ?).
Ai cũng hiểu quản lý nhà nước là phải quản lý
bằng pháp luật, ở đây là các luật (và
các văn bản dưới luật) về lĩnh vực GD (luật GD, luật GD đại học, luật GD nghề
nghiệp). Nhưng hình như chúng ta chỉ hiểu và nhấn mạnh một mặt là thực thi luật, tức nặng về áp đặt từ trên xuống. Còn mặt thứ hai là thực hiện
Dân chủ trong GD và QLGD, nhằm tạo ra động lực bền vững từ bên trong (nội lực) cho
mặt thứ nhất thì chúng ta lại coi nhẹ hẳn hoặc quên mất ! Hai mặt này phải đi
đôi với nhau thì mới mang lại thành công cho các chính sách GD mà các luật GD
đã định hướng, mới nâng được chất lượng và hiệu quả GD lên một cách thực chất
nhằm mang lại lợi ích thiết thực về GD cho người dân. Đây là một quy luật của
mọi hoạt động thực tiễn, chứ không riêng gì với GD, vì ở đó con người bao giờ cũng
là chủ thể của hoạt động, nội lực của chủ thể mới là yếu tố quyết định sự thành
bại của hoạt động. Chủ thể trong hoạt động GD bao gồm một lực lượng đông đảo
người học, người dạy, người QL, … và nhiều đối tượng liên quan.
Luật GD sửa đổi lần này đề cao Quyền Tự Chủ
chính là nhằm đáp ứng mặt thứ hai nói trên. Tăng cường quyền tự chủ phải được
hiểu là với toàn bộ hoạt động GD, với toàn ngành GD, nhưng quan trọng nhất và
chủ yếu là phải bắt đầu từ các cơ sở nhà trường, và từ hoạt động QL của
các cơ quan QLGD. Đề nghị cần mở rộng Quyền tự chủ cho toàn ngành, chứ không
phải chỉ với GD đại học, nhưng có mức độ thích hợp với từng cấp/bậc học. Đương
nhiên Quyền tự chủ phải đi liền với Tự chịu trách nhiệm.
2.3- Phải thay đổi cơ bản cách QL chất lượng GD – khâu trung tâm và cũng
là công việc khó nhất trong hoạt động QLGD. Cách QL chất lượng GD như hiện nay
còn nặng tính hình thức, chưa đi sâu được vào bản chất của việc dạy và học.
Trong đó điểm tắc nghẽn lớn nhất là đánh giá chất lượng “đầu ra”, do chưa biết
cách đánh giá đúng thực chất, ngoài lý do chưa trung thực, bệnh thành tích !
3.3- Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến yếu kém trong QLGD là chất lượng
đội ngũ cán bộ QLGD rất bất cập về cả năng lực và đạo đức, do sự tuyển chọn
không nghiêm ngặt, tiêu cực ! Đề nghị luật GD phải luật hóa cả tiêu chuẩn và
quy trình tuyển chọn này, kể từ những người
đứng đầu ngành GD ở cấp TW (Bộ trưởng, các Thứ trưởng) và cấp tỉnh, huyện !
4.3- Nếu xác định nhiệm vụ trung tâm của hoạt động QLGD là quản lý chất
lượng GD thì cần phải tăng cường hệ thống
Thanh tra GD các cấp, coi thanh tra
chuyên môn là công việc chủ yếu. Cần đầu tư cho bộ phận này những chuyên
gia giỏi về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, coi họ là lực lượng nòng cốt ở các
cơ quan QLGD (như lâu nay là chưa được).
4- Về Nhà giáo và cán bộ QLGD.
1.4- Nhà giáo có sứ mệnh cao cả
là tổ chức hiện thực hóa Mục tiêu GD đối với các thế hệ người học (hiểu rộng ra
là với toàn dân, toàn xã hội). Vì vậy trước hết nhà giáo phải là những con
người hội đủ được những tố chât cơ bản của mẫu hình Con Người Việt Nam Mới mà
mục tiêu GD đã xác định, nổi lên trên hết là đạo đức và trí tuệ, với những phẩm
chất vượt trội hẳn (ít ra là không kém) so với người không làm nhà giáo. Ngoài
ra, ở nhà giáo phải có thêm những phẩm chất và năng lực đặc thù, đáp ứng tốt
nhất cho việc thực thi sứ mệnh cao cả nói trên.
Hơn bất cứ nghề nào, với nghề
dạy học thì hai tiêu chí cơ bản đầu tiên là đạo
đức và trí tuệ phải tốt thực sự, đó cũng là 2 tiêu chí cốt lõi nhất và đặc
trưng nhất của nghề dạy học, ai không đạt thì dứt khoát loại bỏ. Về tiêu chí đạo
đức nhà giáo thì nổi lên trước hết là lòng
nhân ái sâu đậm, đặc biệt là lòng yêu thương với lớp trẻ, và tiếp ngay sau
đó phải là sự mẫu mực về lối sống. Về
tiêu chí trí tuệ, biểu hiện ra ở năng lực, thì biểu hiện đặc trưng nhất là năng lực sư phạm (ở mức cao là tài năng
sư phạm). Đó là sự gắn kết giữa tri thức và kỹ năng sư phạm, trong đó đòi hỏi
cốt lõi nhất là phải biết tạo dựng
cho học trò năng lực tự học, tự giáo dục.
Đương nhiên bản thân nhà giáo đã và đang phải sở hữu được một năng lực tự học, tự giáo dục ở bậc “siêu”
hơn rồi (thể hiện dễ thấy nhất là ở tầm trí tuệ và vốn tri thức chuyên môn –
nghiệp vụ cao hơn hẳn trình độ được đào tạo ban đầu từ trường Sư phạm, và liên
tục được nâng cao). Ngày nay, nếu một người thầy mà không biết tự học (tự giáo
dục) và không biết dạy cách tự học (tự giáo dục) cho học trò thì không nên và
không thể tiếp tục làm nhà giáo được nữa ! Đây phải được coi là một tiêu chí cứng, không được châm chước.
Phải quán triệt tiêu chí này trong đào tạo sư phạm, trong bồi dưỡng thường
xuyên về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, trong đánh giá chất lượng nhà giáo,
trong tuyển dụng và sàng lọc đội ngũ nhà giáo. Hiện nay trong cả 4 khâu trên đều
đang không thật sự coi trọng đòi hỏi cứng nói trên, với đầy đủ các lý do khách
quan và chủ quan, nên tất yếu dẫn đến sự bất cập toàn diện theo chiều hướng đi
xuống về chất lượng đội ngũ nhà giáo !
2.4- Việc đánh giá chất lượng chuyên môn của đội ngũ nhà giáo (cùng với
việc đánh giá chất lượng GD) là một khâu quan trọng nhất trong hoạt động QLGD. Nhưng
cũng là khâu đang gặp nhiều khó khăn, lúng túng nhất, mà chưa có cách tháo gỡ hiệu
quả và đáng tin cậy. Chất lượng và hiệu quả chuyên môn (giáo dục và giảng dạy)
là nội dung trọng tâm trong việc đánh giá chất lượng nhà giáo nói chung. Muốn
đánh giá chất lượng chuyên môn nói trên thì tất yếu phải hướng vào sản phẩm
“đầu ra” mà soi xét. Con người mới do GD
đào tạo ra thường được coi là sản phẩm (“đầu ra”) của GD, nhưng thực ra thì
chính các tố chất của con người mới đó, như
đã nêu trong MTGD, mới là sản phẩm đích thực và trực tiếp của GD (mà Chủ
tịch HCM vẫn nói gọn lại : Sản phẩm của GD là Nhân cách). Nhưng sản phẩm này
(các thành tố của con người mới) đa phần lại tồn tại chủ yếu ở dạng phi vật chất, và hơn nữa nó lại là
kết quả từ lao động nghiệp vụ của cả một tập thể, chứ không phải chỉ một người.
Hiện nay việc đánh giá “đầu ra” này của GD đang nặng về hình thức, chưa đi vào
thực chất (như thi đua, thao giảng, sáng kiến kinh nghệm, tỷ lệ ngụy tạo về điểm
số, về các giải thưởng, về học sinh lên lớp, …), có khi chỉ là cảm tính, do chưa
có cách vượt qua được nhiều lúng túng, chẳng hạn :
- Làm thế nào để vật chất hóa
được sản phẩm GD mà đánh giá ? Lâu nay thì mới là các bài kiểm tra (viết, miệng,
công trình nghiên cứu, động tác, vật phẩm lao động, hành vi đạo đức, …). Như
vậy có phiến diện và đơn điệu chăng, và còn có thể là gì nữa ?
- Làm thế nào để cá thể hóa được
sản phẩm GD đúng với từng địa chỉ tác giả có công sinh ra nó, tức là tách bạch
được phần đóng góp của từng nhà giáo ? (với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên
tiểu học thì có vẻ như là có phần thuận
lợi hơn, vì mỗi người đều đã được gắn với 1 lớp ?).
- Làm thế nào để đối chiếu, so
sánh được trình độ “đầu ra” với
trình độ “đầu vào”, khi mà lâu nay chưa hề có nề nếp khảo sát đầu năm học và
đánh giá cuối năm học, thật khoa học và thuận tiện ? …
Vì vậy luật GD (và các văn bản
hướng dẫn thi hành luật) cần xác định rõ nội dung và hình thức đánh giá chất
lượng nhà giáo (và chất lượng GD) ?
3.4- Bên cạnh những quy định về vai trò, trách nhiệm của nhà giáo, thì
trong luật cũng rất nên có (nếu chưa có)
những điều cấm không được làm đối
với nhà giáo, những quyền hạn của nhà giáo trong thực thi trách nhiệm, chẳng
hạn :
- Nhà giáo có quyền được nhận chỉ
những học sinh đúng trình độ “đầu vào”, có toàn quyền đánh giá chất lượng học
sinh theo đúng tiêu chuẩn, không bị bất cứ áp lực nào.
- Nhà giáo phải có trách nhiệm đầy đủ về sản phẩm đào tạo của mình, nếu
chưa đạt chất lượng thì phải làm lại, làm bù (dưới hình thức phụ đạo, kèm cặp
thêm, …). Và do đó nhà giáo không được tổ
chức dạy thêm thu tiền dưới bất cứ hình thức nào. Nhà trường phải có trách
nhiệm tổ chức việc khắc phục này để nhà giáo được thực thi trọn vẹn trách nhiệm
chuyên môn của họ. Về điểm này, tôi và nhiều nhà giáo không đồng tình với thông
tư 17 của Bộ GD&ĐT về việc dạy thêm, thậm chí có ý kiến đề nghị xóa bỏ
thông tư này !
- Nhà giáo không được ứng xử thô bạo, phản sư phạm, trước hết là trong
thực thi nhiệm vụ chuyên môn, như mắng nhiếc, ăn nói thô lỗ, tục tằn, bạo hành
với học trò. …
4.4- Cán bộ QLGD các cấp phải thực
sự có năng lực chuyên môn và năng lực QL cái chuyên môn đó, gọi nôm na là năng lực kép. Năng lực quản lý GD vẫn được hiểu là biết tổ chức
và điều khiển các hoạt động GD. Do đó cán bộ QLGD phải là những nhà giáo
trưởng thành lên từ cơ sở. Đặc biệt đối với cán bộ chỉ đạo chuyên môn, cán bộ
thanh tra chuyên môn thì nhất thiết phải là những nhà giáo giỏi đã kinh qua chuyên môn giáo dục và giảng dạy từ các
nhà trường. Thực trạng hiện nay là ở nhiều nơi còn rất bất cập về trình độ,
thậm chí có cán bộ QLGD chưa hề làm nhà giáo, chưa hề đi dạy !...
Cần có cơ chế chặt chẽ trong việc
tuyển chọn đội ngũ này. Riêng đối với vị trí người đứng đầu (hiệu trưởng,
trưởng phòng, giám đốc Sở, Bộ trưởng) thì nên áp dụng cơ chế thi tuyển, tranh
cử, lấy phiếu tín nhiệm để thay thế và bổ sung cho qui định bổ nhiệm có tính áp
đặt, không dân chủ, nên thường là không chuẩn xác, không chọn đúng được người
tài !
4- Một vài nội dung khác.
1.4-
Về lương của nhà giáo.
Hoan nghênh qui định của luật về điều này : lương của nhà giáo được xếp
cao nhất trong hệ thống lương hành chính, sự nghiệp. Đó là một quy định hoàn
toàn phù hợp với vị trí Quốc Sách Hàng
Đầu của GD, xứng đáng với vai trò quyết định của nhà giáo trong việc bảo đảm
chất lượng GD. Qui định này nếu được thực hiện thì sẽ tạo thêm động lực làm
việc tốt hơn cho đội ngũ đông đảo nhà giáo các cấp, sẽ góp phần quan trọng cải
thiện mức sống của số đông nhà giáo hiện nay. Nhưng để
triển khai được suôn sẻ quy định này thì cần có giai đoạn quá độ, với các bước
đi thích hợp, chứ không thể làm đồng loạt ngay một lúc được. Vì cái lẽ sau đây
: hiện nay chất lượng GD và trình độ đội ngũ nhà giáo đang còn nhiều bất cập,
chưa tương xứng với sự ưu đãi đó của xã hội, nên có thể chưa được sự đồng thuận
của nhân dân và cán bộ các ngành khác. Chúng ta phải phấn đấu nâng dần chất
lượng GD và trình độ nhà giáo lên một cách thực chất để có cơ sở đưa dần từng bộ phận nhà giáo vào khung
lương ưu đãi đó. Chẳng hạn lần lượt theo các đối tượng sau : trước hết là
bộ phận tinh hoa, tiếp đến là bộ phận đạt trình độ trên chuẩn, rồi đạt chuẩn, ...
và sau đó mới là đại trà.
2.4- Về giáo sư (GS), phó giáo sư (PGS).
Luật
quy định : GS, PGS là chức danh của các nhà
giáo đang giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở cơ sở GD đại học. Đây là một quy
định chuẩn xác, phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển GD đại học Việt Nam và xu
hướng của thế giới. Nội dung quy định là rất rõ ràng, nhưng cũng cần phải hiểu cho
thống nhất thì mới chống được tệ nạn lách luật để cố ý thực hiện không đúng. Ví
dụ văn bản hướng dẫn thực hiện cần nêu ra những trường hợp không đúng đối
tượng, như không phải là nhà giáo, không còn là nhà giáo, ngụy tạo các điều
kiện, ..., hoặc cần giải thích rõ Thế nào là có bài nghiên cứu được đăng tải
trên tạp chí khoa học quốc tế đủ uy tín,
Hình như đã có trường hợp vin vào nhiều lý do bất khả kháng (như bảo vệ bí
mật quốc gia chẳng hạn với các chuyên ngành an ninh, quân sự, xây dựng Đảng, ...)
để né tránh đòi hỏi này, được không ?...
Qui định nói trên rất cần được ban bố và
thực hiện ngay để góp phần chấn chỉnh tình trạng quá lỏng lẻo và khá tùy tiện
trong việc xét và công nhận các học hàm nói trên. Hậu quả để lại cho đất nước
là đã tạo ra đội ngũ trí thức cấp cao giả, quá non yếu, không đúng tầm, không
đúng với chuẩn chất lượng cần có. Trình độ của khá nhiều người trong đó quả là
không xứng đáng với ngôi vị khoa học được phong, vì phần đóng góp của họ, trước
hết là trong khoa học, quá ít ỏi hoặc chưa có gì đáng ghi nhận, và hơn thế chưa được thế giới
công nhận và nể phục ! Nhân dân rất coi thường, giới khoa học cũng rất không
tín nhiệm thật lòng trước hiện tượng giả dối này. Vì vậy Nhà nước đang yêu cầu
ngành GD phải rà soát và chấn chỉnh lại việc này. Chúng ta hoan nghênh thái độ đó của Chính phủ.
Nhân đây chúng ta kiến nghị :
- Các ứng viên hiện nay và sau này hãy nghiêm
túc xem lại mình trước khi đăng ký, nếu ai đã trót đăng ký thì nên tự giác rút
lui, không đăng ký nữa, khi tự thấy mình chưa đúng tầm và chưa đủ chuẩn.
– Các đối tượng
đã trót được công nhận cũng nên làm tương tự. Nếu không đúng đối tượng, hoặc
không đủ tiêu chuẩn, hoặc không còn làm nhà giáo nữa thì hãy trả lại học hàm
cho xã hội (mà Hội đồng chức danh được là đại diện). Và từ sau đó cũng tự giác
không sử dụng chức danh này trong giao dịch dân sự, công vụ.
– Nếu các loại
đối tượng nói trên không tự giác thực hiện thì Hội đồng chức danh phải áp dụng biện pháp cứng
rắn để xóa tên trong danh sách hoặc thu hồi Bằng chứng nhận, không thể nhân
nhượng hữu khuynh.
– Hệ thống báo
chí cần hậu thuẫn cho việc thực thi quy định này, đấu tranh mạnh mẽ với tệ gian
dối, háo danh, cơ hội trong khoa học,...
Do
quỹ thời gian quá hạn hẹp, và do không có văn bản gốc (tức luật cũ cần sửa đổi)
nên chúng tôi đã gặp khó khăn lớn trong nghiên cứu để có thể đóng góp nhiều
hơn. Và do vậy trong các nội dung góp ý có thể có sai sót, tôi mong được thông
cảm và trao đổi lại trên các diễn đàn !
Ngày 6 tháng 5 năm 2018
H
M
Phần 2-
Cùng góp ý về Luật Giáo dục đại học sửa đổi (Đăng tiếp kỳ sau)
|