Tác giả: Hoàng Anh Tuấn
Khi nói đến tình hình thế giới hiện nay, câu chuyện cuộc chiến thương
mại Mỹ – Trung và xa hơn một chút là nguy cơ đối đầu toàn diện về kinh
tế, chính trị, chiến lược, khoa học kỹ thuật giữa cường quốc số một và
số hai trong việc tranh ngôi bá chủ toàn cầu cùng các tác động của cuộc
đối đầu này dường như đang chi phối mối quan tâm của thế giới.
Cuộc đối đầu này sẽ kéo dài bao lâu? Sau nhiệm kỳ của Tổng thống
Trump hay sẽ kéo dài tới 45 năm như Chiến tranh lạnh Mỹ – Xô trước đây?
Khó ai có thể dự báo chính xác, nhưng chắc chắn sẽ không kết thúc nhanh
chóng.
Tỷ phú giàu nhất Trung Quốc Jack Ma đã “chuẩn bị tinh thần” cho giới
lãnh đạo chính trị và kinh doanh Trung Quốc rằng Trung Quốc và thế giới
cần phải chuẩn bị cho một cuộc chiến thương mại Trung – Mỹ có thể kéo
dài đến 20 năm, tức sẽ kéo dài nhiều năm sau khi Trump không còn là Tổng
thống Mỹ nữa.
Ở một góc độ nào đó, việc dư luận quan tâm đến khía cạnh thương mại
và đối đầu chiến lược giữa hai cường quốc này là đúng nhưng chưa đủ vì
nó mới chỉ phản ánh được một phần những chuyển động lớn đang chi phối
cục diện thế giới hết sức phức tạp hiện nay.
Tạm thời chưa bàn đến chiến lược mới của Trung Quốc nhằm định vị lại
vị thế quốc tế mới của mình và nỗ lực xây dựng một trật tự và hệ thống
quan hệ quốc tế mới trong bài viết này, mà chỉ tập trung vào những
chuyển động lớn từ Mỹ bắt đầu từ dưới thời Tổng thống Donald Trump.
Rất khó để hiểu chính xác Trump, ông ta muốn gì, sẽ làm gì, làm như
thế nào và làm được đến đâu. Việc lãnh đạo Trung Quốc không hiểu rõ,
phán đoán sai, rồi có những bước đi khiến “cuộc chiến thương mại” lúc
đầu tưởng như chỉ bắt đầu từ những “xích mích” nhỏ, rồi lan ra thành
cuộc đối đầu kinh tế, thương mại toàn diện… cần xem là chuyện “bình
thường”.
Ngay chính trong lòng nước Mỹ, dù thích hay không thích nhưng có một
thực tế là không chỉ các đối thủ, mà ngay các đồng minh chính trị cũng
không hiểu Tổng thống muốn gì, còn người dân và giới doanh nghiệp thì
“thấp thỏm” chờ đợi các dòng “tweets” hàng ngày của Tổng thống để phán
đoán hành động tiếp theo. Chưa kể sự thể còn bị “rối bung” khi hàng ngàn
tờ báo từ cánh tả tới cánh hữu lao vào bình luận, mổ xẻ, phân tích, rồi
bút chiến nhằm dẫn dắt dư luận theo nhiều chiều hướng khác nhau khiến
thông tin trở nên “nhiễu loạn”.
Tất cả những cái đó rất dễ dẫn dắt người đọc, dư luận đi vào các tiểu
tiết, hoặc bỏ qua và không thể nhìn thấy các chiều hướng chính sách,
các chuyển động lớn sẽ chi phối nước Mỹ và nền chính trị thế giới trong
nhiều thập niên tới, được khái quát thành “5 cuộc đại chiến” của Trump.
Ở đây chưa bàn đến cái hay, cái dở, cái đúng, cái sai của các cuộc
chiến này. Nhưng đây là thực tế những gì Trump đang làm và dù thích hay
không thì nước Mỹ và thế giới cũng phải sống chung và thích ứng với thực
tế này chừng nào mà Donald Trump vẫn còn là Tổng thống Mỹ.
Tìm đọc nhiều tư liệu, nhưng tôi cũng kinh ngạc khi phát hiện dường
như trong lịch sử thế giới cận đại gần 500 năm qua, THẾ GIỚI CHƯA TỪNG
CHỨNG KIẾN một nhân vật lãnh đạo nào của một quốc gia hùng mạnh nhất thế
giới như Donald Trump lại cùng lúc phát động 5 “cuộc chiến sống mái”
trên 5 mặt trận khác nhau.
Cần nhớ, trong các bài học lịch sử kinh điển, chỉ cần thắng hay thua
trong một cuộc chiến, chỉ một cuộc chiến thôi, đã đủ để lưu danh muôn
thuở hay chôn vùi vĩnh viễn danh tiếng bất kì một tổng thống nào của
nước Mỹ.
Vậy 5 cuộc chiến đó là gì?
- Cuộc chiến thứ nhất: Xác lập “giá trị bảo thủ” và tìm cách đẩy lui các “giá trị tự do”
Cuộc chiến này thể hiện qua cuộc đấu quyết liệt giữa hai phe Cộng hòa
và Dân chủ qua việc đề cử Thẩm phán Brett Kavanaugh vào vị trí thẩm
phán suốt đời tại Tòa án tối cao (Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ) gồm 9 người
thay cho Thẩm phán Anthony Kennedy. Thẩm phán Kennedy được Tổng thống
(TT) Reagan bổ nhiệm năm 1987 và về hưu năm 2018 sau 31 năm ở cương vị
này.
Việc đề cử vị trí thẩm phán thứ 9 Tòa án tối cao diễn ra ngay trong
nhiệm kỳ đầu của TT Cộng hòa Trump và trùng hợp với thời điểm đảng Cộng
hòa đang kiểm soát đa số (dù mỏng manh) tại Thượng viện, đang giúp TT
Trump lựa chọn người cùng quan điểm qua đó ghi dấu ấn, tạo ảnh hưởng bảo
thủ và góp phần định vị bản sắc của nước Mỹ trong nhiều thập niên sau
này. Tất nhiên, cần hiểu rõ đây không phải là những quan niệm bảo thủ
hay tự do mà ta và nhiều nước khác quan niệm, mà chủ yếu liên quan đến
các vấn đề xã hội, tôn giáo, thuế, tự do cá nhân và đạo đức của người
Mỹ.
Vị trí Thẩm phán Tối cao Pháp viện là vị trí đầy quyền lực trong hệ
thống chính trị tam quyền phân lập tại Mỹ, có quyền giải thích hiến
pháp, các đạo luật của Quốc hội, sắc lệnh của Tổng thống xem có vi hiến
hay không, cho ý kiến về các vụ xét xử gây tranh cãi, dư luận quan tâm
thông qua hình thức bỏ phiếu.
Lấy ví dụ về sắc lệnh cấm người Hồi giáo từ 6 quốc gia Hồi giáo nhập
cư vào Mỹ khi Tổng thống Trump mới lên cầm quyền. Khi đó Tối cao Pháp
viện phải ra phán quyết đây là sắc lệnh không vi hiến thì Sắc lệnh này
của Tổng thống mới được thực thi.
Chỉ đơn cử một việc như vậy đã giải thích tại sao cả hai phe Dân chủ
và Cộng hòa một bên thì kịch liệt phản đối, còn bên kia thì ủng hộ bằng
mọi giá ứng cử viên Thẩm phán Tối cao Pháp viện thông qua cuộc Điều trần
đang diễn ra và tiếp theo là màn bỏ phiếu hết sức gay cấn ngay trước
thềm bầu cử giữa nhiệm kỳ vào tháng 11/2018.
Và cũng cần nhắc lại là các Tổng thống Mỹ như Ronald Reagan, Bill
Clinton, George Bush từng không thành công lần đầu khi các ứng viên cho
vị trí Thẩm phán Tối cao Pháp viện của mình không vượt qua được vòng
điều trần hoặc bỏ phiếu tại Quốc hội.
- Cuộc chiến thứ hai: Chống lại ngay chính đảng đề cử mình để
bảo vệ những giá trị bảo thủ cốt lõi của những người Cộng hòa theo quan
điểm của Trump
Đây là điều tưởng chừng là nghịch lý, nhưng lại là thực tế. Lần ngược
lại thời gian trước cuộc bỏ phiếu Tổng thống Mỹ tháng 11/2016, Trump
khi đó bị những lãnh đạo chủ chốt của Đảng Cộng hòa xem là “đứa con
hoang” (pariah), đi ngược dòng chủ lưu.
Nhưng trái với hầu hết các dự báo, Trump – một người chưa hề có kinh
nghiệm chính trường – lần lượt đánh bại từng đối thủ một vốn là các nhân
vật lãnh đạo gạo cội và “ngôi sao” trong đảng Cộng hòa như Rand Paul,
Mitch Romney, McGovern…
Thông thường trong chính trị Mỹ “cuộc chiến nội bộ” thường kết thúc
khi đã có phân định thắng thua. Tuy nhiên, với Trump thì ngược lại. Với
tỷ lệ ủng hộ lên tới 85% các cử tri Cộng hòa, Trump gần như không có các
đối thủ nặng ký trong đảng Cộng hòa nên mạnh tay tấn công các “cây đa,
cây đề”, các thiết chế mà Trump xem là “trì trệ” trong đảng Cộng hòa để
xây dựng liên minh mới, thúc đẩy các ý tưởng bảo thủ và cải cách.
Còn các lãnh đạo Cộng hòa trong khi tiếp tục tận dụng ảnh hưởng của
Trump để mở rộng uy tín của Đảng, thì cũng đấu quyết liệt không kém với
Trump trong nội bộ đảng để chống lại một số cải cách mà họ xem là “nguy
hại” cho nước Mỹ, tìm cách duy trì các thiết chế cũ cũng như dòng tư
tưởng chủ lưu. Tuy nhiên, đối với nhiều nghị sĩ thì việc duy trì trật tự
cũ còn là cách để họ tiếp tục duy trì ảnh hưởng và tiếp tục được hưởng
các “đặc quyền, đặc lợi”.
- Cuộc chiến thứ ba: Chống lại các thiết chế đã định hình và sự “trì trệ” của nước Mỹ
Nếu chỉ đọc qua về sự “trì trệ” của nước Mỹ, người đọc dễ liên tưởng
đây là câu chuyện hoang tưởng, nhưng đó lại phản ánh một phần sự thật.
Nước Mỹ từ lâu vốn được xem là quốc gia năng động bậc nhất, là nơi tập
trung các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu hàng đầu thế giới, là
nơi có nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel nhất thế giới, nơi luôn
khuyến khích sự sáng tạo, các ý tưởng lạ. Tóm lại, nước Mỹ được nhìn
nhận là quốc gia luôn thay đổi và biết cách “tự làm mới” mình liên tục.
Còn nhớ câu chuyện giữa những năm 1980, cách đây quãng ba chục năm,
khi đó Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Mikhail Gorbachev đưa ra ý tưởng
“cải tổ” và “công khai hóa” (“perestroika” and “glasnost”) đã làm thế
giới phát sốt, còn nước Mỹ thì bị lo qua mặt. Khi đó có nhà báo hỏi Tổng
thống Ronald Reagan là nước Mỹ có ý định thực thi “cải tổ” và “công
khai hóa” như Gorbachev đang theo đuổi hay không thì câu trả lời của
Reagan, đại ý là: Gorbachev đang làm cái việc mà đáng ra các nhà lãnh
đạo Liên Xô phải làm từ lâu, nhưng họ đã không làm và để vấn đề tích tụ
lại. Mỹ không cần “cải tổ” hay “công khai hóa” vì đây là việc Mỹ làm
thường xuyên.
Kết quả là “cải tổ” và “công khai hóa” của Gorbachev thiếu một tầm
nhìn và cách làm bài bản đã đưa Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ nghĩa
Đông Âu đến chỗ sụp đổ, còn khẩu hiệu “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”
(Make America Great Again) của Reagan cùng chính sách kinh tế
Reaganomics và “làm mới lại nước Mỹ ngay trên đất Mỹ” đã giúp nước Mỹ
hùng mạnh trở lại trên mọi phương diện vào đầu những năm 1990.
Quay trở lại nước Mỹ trước khi Trump lên cầm quyền. Từ góc độ của một
nhà kinh doanh thành đạt trên đỉnh cao sự nghiệp và góc nhìn mới của
một chính trị gia Trump cảm thấy hết sức “thất vọng” vì nước Mỹ đang trở
nên già nua, xơ cứng, có quá nhiều “trì trệ”, sức ỳ, quá nhiều rào cản.
Bên cạnh đó, quá nhiều thế lực hùng mạnh trong giới chính trị, kinh
doanh, truyền thông… sẵn sàng liên kết, ra tay bóp nghẹt các ý tưởng mới
để bảo vệ đặc quyền của mình, mà như từ ngữ ta hay dùng là lợi ích
nhóm.
Lợi ích nhóm ở nước Mỹ hiện quá hùng mạnh, bám rễ quá sâu nên các
nhóm này sẵn sàng liên kết, tiến hành “chiến tranh tổng lực” chống lại
Trump và toàn bộ chính quyền của ông ta đến cùng. Ngược lại, để thực
hiện cam kết tranh cử đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, Trump, với tác phong
và cách làm “phi truyền thống”, cũng lao vào ăn thua đến cùng với nhóm
lợi ích.
Đỉnh điểm là ngày 16/8/2018 vừa qua, cùng lúc 350 tờ báo trên khắp nước Mỹ, trong đó có những tờ lâu đời và nổi tiếng như Boston Globe, The New York Times, Washington Post, Philadelphia Inquirer…
đồng loạt đăng xã luận, công kích chính quyền Trump, coi cá nhân và
Chính quyền Trump là mối đe dọa lớn nhất đối với tự do báo chí – vốn
từng được coi là một trụ cột quan trọng trong xã hội Mỹ cùng với tam
quyền phân lập.
Đây là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử và xã hội Mỹ từ xưa đến
nay. Nói đến đặc quyền của báo chí Mỹ thì phải kể đến câu chuyện cách
đây 36 năm, chỉ với tờ Washington Post đi tiên phong, cùng các
phóng sự của hai nhà báo điều tra gạo cội là Carl Bernstein và Bob
Woodward đã góp phần “hạ bệ” Tổng thống đương nhiệm Richard Nixon trong
vụ Watergate. Với sức mạnh của báo chí tới mức có thể “làm nên” hay “làm
tiêu tùng” (make or break) sự nghiệp của một Tổng thống như vậy nên các
chính trị gia thường chọn cách “dĩ hòa vi quý” thay vì làm “mếch lòng”
báo chí.
Tuy nhiên, Trump thì khác hẳn, chọn ngay cách đối đầu với báo chí “không cùng phe” điển hình là CNN, Washington Post, The New York Times.
Trump sử dụng con bài nhất quán ngay từ đầu là coi ba tập đoàn truyền
thông lớn này cùng các bài báo chỉ trích cá nhân và chính quyền của mình
là “báo chí của phe Dân chủ” và chuyên đăng “tin giả” (fake news)! Nói
cách khác, Trump đánh trực tiếp vào tính chính danh và sự khách quan của
báo chí “không cùng phe”.
Nhìn một cách công bằng, sự ra đời của Internet, và cùng với nó là
các mạng xã hội như Facebook, Twitter, Snapchat, YouTube… trong những
năm qua đã làm giảm đáng kể quyền lực của các “ông lớn” truyền thông
trong khi các ông lớn này vẫn ngủ quên trên đỉnh cao quyền lực thời
hoàng kim. Mặt khác, sự phân hóa Xã hội Mỹ về mọi mặt, từ câu chuyện
ranh giới giàu nghèo, thu nhập, đẳng cấp, sự hình thành giới chính trị
gia “xa lông” ngày càng tách rời tầng lớp “thấp cổ bé họng”… dưới tác
động đa chiều của Cách mạng công nghiệp 4.0, toàn cầu hóa đã tác động
mạnh, làm báo chí mất đi sự trung lập vốn có và khiến báo chí cũng phân
làn rõ rệt. Trước đây thì rất khó phát hiện, nhưng nay chỉ cần cầm một
tờ báo bất kì, đọc qua vài bản tin hoặc bật xem TV vài phút là có thể
nói tương đối chính xác thiên kiến chính trị của tờ báo hoặc một hãng
truyền thông nào đó.
Do đó, khá dễ hiểu là 350 tờ báo cùng lúc đả kích Trump nhưng lại ít
nhiều đều chia sẻ các quan điểm chính trị như nhau. Và như thường lệ,
chỉ vài dòng “Tweets” với 50 triệu người theo dõi mỗi ngày, Trump dễ
dàng “vô hiệu hóa” các xã luận trên. Trước đây khi mạng xã hội chưa phát
triển, các Tổng thống, chính trị gia thường đứng im chịu trận. Nhưng
nay, Trump cũng lên tiếng “đòi” được đối xử công bằng, không bị báo chí
tấn công một chiều!
Tuy nhiên, chủ đích cuối cùng của Trump là “vô hiệu hóa” sự chỉ trích
của đối thủ, khiến ông ta có vị thế áp đảo trong giới truyền thông, từ
đó gây ảnh hưởng, truyền tải các thông điệp chính trị.
Trong lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, quản trị đất nước…. Trump cũng có
những cách làm “lạ đời”, giúp tiết kiệm hàng chục triệu giờ công lao
động hoặc hàng tỷ USD tiền đóng thuế của người dân, doanh nghiệp, cụ thể
là:
– Trump ngay khi nhậm chức đã yêu cầu Boeing phải xem xét và đàm phán
lại Hợp đồng mà Chính quyền Tổng thống Obama đã ký trước đó để mua hai
máy bay “Không lực số một” (Air Force One) giao hàng vào năm 2024 vì giá
quá cao. Boeing đứng trước tình thế phải đàm phán lại nếu không có nguy
cơ bị hủy hợp đồng. Kết quả là cặp máy bay nay chỉ còn giá 3,9 tỷ USD,
từ giá “trên trời” là 5,3 tỷ USD, tức giảm khoảng 25% giá ban đầu.
– Tương tự như vậy, Trump và Lầu Năm Góc cũng buộc hãng Lockheed
Martin, nhà cung cấp máy bay chiến đấu F-35 thế hệ thứ năm phải đàm phán
lại và giảm giá từ 95 triệu USD/1 chiếc F-35 mà Lầu Năm Góc trả năm
2017, xuống còn 89 triệu USD/1 chiếc cho lô hàng giao trong năm 2018 và
80 triệu USD/1 chiếc năm 2020.
Chỉ qua hai vụ đàm phán đình đám, thông điệp của Trump đối với giới
doanh nghiệp rất đơn giản: Ngay cả những hàng hóa mang tính biểu tượng
của Tổng thống, đến bảo vệ an ninh quốc gia chính quyền cũng sẵn sàng
xem xét, thậm chí hủy đơn hàng nếu cần. Dó đó, các hãng lớn nếu muốn làm
ăn với chính phủ, muốn có tương lai phải cải tiến, nâng cao chất lượng
và giảm giá thành.
– Ngoài việc đơn giản hóa sắc luật thuế liên bang, ngày 30/1/2017
Trump còn ký một sắc lệnh của Tổng thống quy định, từ nay trở đi bất cứ
một quy định, hay điều lệ mới nào của liên bang ra đời thì cơ quan đệ
trình buộc phải vô hiệu hóa quy định hay điều lệ cũ. Mục đích của việc
này là tránh biến các cơ quan công quyền thành bộ máy quan liêu, ra các
“quy định trên trời”, tạo thuận lợi tối đa cho cuộc sống, sinh hoạt của
người dân, cũng như hoạt động của doanh nghiệp.
Trên đây chỉ là một ít ví dụ, nhưng nó cho thấy cuộc chiến chống lại
thiết chế đã định hình và gắn với nó là lợi ích nhóm với đủ loại biến
tướng là hết sức khó khăn, phức tạp. Hơn nữa, đây lại là cuộc chiến nội
bộ nơi các đồng minh lẫn đối thủ đều minh tường các điểm mạnh, yếu của
nhau và sẵn sàng ra đòn dứt điểm đối phương bất cứ khi nào có thời cơ.
- Cuộc chiến thứ tư: Duy trì địa vị siêu cường số một thế giới của Mỹ
Theo tư duy và cách làm thông thường, một quốc gia duy trì ngôi vị
hàng đầu của mình bằng cách thực hiện hai bước song song: Củng cố sức
mạnh quốc gia tổng hợp của mình, đồng thời chặn bước tiến và tạo khoảng
cách xa nhất có thể với địch thủ bám ngay sát. Và nước Mỹ không phải là
ngoại lệ.
Lịch sử của Mỹ từ khi lập quốc ngày 4/7/1776 đến nay là lịch sử bành
trướng, và vươn lên không ngừng, từ một liên bang lỏng lẻo gồm 13 bang
ban đầu vốn dĩ là thuộc địa của Anh Quốc thành một nhà nước liên bang
hợp chúng quốc hùng mạnh nhất thế giới với 50 bang như hiện nay. Lịch sử
Mỹ cũng là lịch sử đấu tranh và triệt hạ không khoan nhượng bất kỳ địch
thủ thủ nào tìm cách thách thức vị trí số một của Mỹ.
Chỉ sau khoảng 100 năm lập quốc, đến đầu những năm 1870, sau khi kết
thúc nội chiến Bắc Nam (1861-1865) Mỹ đã thay Anh trở thành nền kinh tế
lớn nhất thế giới, rồi trở thành siêu cường số một thế giới khoảng 70
năm sau đó sau khi kết thúc Thế chiến II năm 1945. Trong khi hầu hết các
cường quốc khác bị suy yếu và tàn phá nghiêm trọng bởi chiến tranh thì
Mỹ ra khỏi Thế chiến II với vị thế đặc biệt của người chiến thắng, với
sức mạnh vượt trội so với bất kỳ cường quốc nào khác.
Trong khoảng thời gian 5 năm hậu chiến, GDP của Mỹ luôn chiếm tới 1/2
GDP của cả thế giới, Mỹ cũng là quốc gia duy nhất sở hữu vũ khí nguyên
tử, còn đồng USD thì “hất cẳng” đồng bảng Anh, trở thành đồng tiền thanh
toán, lưu trữ chủ chốt của thế giới. Với vị thế áp đảo như vậy, Mỹ dễ
dàng “vẽ” trật tự của Phương Tây và phần nào đó là trật tự thế giới hòng
thao túng theo ý đồ của mình: Về quân sự, Mỹ lập ra khối quân sự Bắc
Đại Tây Dương; về thương mại Mỹ sử dụng ảnh hưởng để lập Hiệp định Thuế
quan và Thương mại (GATT), tổ chức tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế
giới WTO sau này; còn về tài chính, Mỹ cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc lập ra các thiết chế tài chính có ảnh hưởng đến tận bây giờ
như: Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân
hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD), Công ty Tài chính Quốc tế
(IFC)… Mục đích tối thượng là duy trì địa vị cường quốc số một thế giới
và thiết lập một trật tự toàn cầu bao trùm hầu khắp các lĩnh vực theo
luật chơi do Mỹ đặt ra.
Trong 45 năm sau Thế chiến II, hệ thống quốc tế do Mỹ “cầm trịch” đã
vận hành tương đối hiệu quả, giúp Mỹ “đánh bại” – dù hết sức khó khăn –
được địch thủ cạnh tranh về quân sự, chiến lược và ý thức hệ là Liên Xô,
khiến không chỉ Liên Xô mà cả hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu cùng
lúc bị tan rã.
Về mặt kinh tế, với Thỏa ước Plaza (Plaza Accord) ký ngày 22/9/1985
tại New York để giải quyết “chiến tranh tiền tệ” giữa năm cường quốc
Phương Tây, mà thực chất là nhằm vào Nhật Bản, buộc nước này phải tăng
giá đồng Yên so với đồng USD và các ngoại tệ chủ chốt khác. Thỏa ước
Plaza là đòn độc, đòn “tước vũ khí” quyết định khiến Nhật không thể dùng
chiến thuật dumping (giảm giá), cạnh tranh không lành mạnh nhờ hỗ trợ
của chính phủ để đánh bại các công ty Mỹ. Và cũng từ đây bong bóng bất
động sản Nhật bị bể, kinh tế rơi vào trạng thái trì trệ suốt từ đầu
những năm 1990 đến nay và từ đó trở đi Nhật không bao giờ trở thành mối
đe dọa về kinh tế với Mỹ nữa.
Tuy nhiên, từ đầu những năm 1990 sau khi Liên Xô tan rã thì nước Mỹ
bước vào tình trạng “phởn chí” khi không còn đối thủ ngang tầm. Học giá
Mỹ nổi tiếng Francis Fukayama thậm chí còn xuất bản cuốn sách “Sự cáo
chung của Lịch sử” (The End of History and the Last Man), với tuyên bố
ngạo mạn về “Chiến thắng của nền dân chủ tự do” đứng đầu là Mỹ trước các
“chính thể chuyên quyền”. Tiếp đó là các sai lầm chiến lược nối tiếp
sai lầm khi Mỹ sử dụng lực lượng quân sự quy mô lớn tiến hành cùng lúc
cuộc chiến chống khủng bố hao người tốn của và không lối thoát sau vụ
khủng bố 11/09/2001 – với phí tổn khoảng 4000 tỷ USD và hàng chục ngàn
sinh mạng – trên hai mặt trận là Iraq và Afghanistan.
Trong khi đó, trên một mặt trận khác, Trung Quốc thực hiện một chiến
lược âm thầm, nhưng hết sức quyết liệt là thực thi cải cách mở cửa về
kinh tế, xây dựng nội lực bên trong, cố gắng tránh, tìm cách không gây
bất hòa hoặc đối đầu với Mỹ khi không cần thiết. Nhờ chiến lược “Thao
quang dưỡng hối”, hiện đại hoá đúng đắn, cách làm bài bản, có sự chỉ
huy, thống nhất và tập trung cao độ, lại tận dụng được lợi thế của người
đi sau trong việc áp dụng cách mạng khoa học công nghệ nên Trung Quốc
đã lớn mạnh vượt bậc chỉ trong thời gian rất ngắn. Trong giai đoạn kéo
dài 25 năm từ 1990-2014, Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trên
10% năm, vượt Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới từ
2010. Trong giai đoạn 2004-2016 GDP của Trung Quốc tăng trưởng tới 4 lần
từ 2.500 lên 10.000 tỷ USD và đuổi sát Mỹ. Đến trước giai đoạn Tổng
thống Donald Trump lên nắm quyền 01/01/2017, nếu như tốc độ phát triển
kinh tế của Mỹ và Trung Quốc vẫn duy trì như thời gian trước đó thì theo
dự báo của WB và IMF, chỉ đến năm 2025 hoặc cùng lắm là 2030 Trung Quốc
sẽ vươn lên thay thế Mỹ để trở thành cường quốc kinh tế lớn nhất thế
giới.
Không chỉ phát triển về lượng, mà Trung Quốc còn phát triển về chất,
hướng đến các tiêu chí quản trị doanh nghiệp, quản trị quốc gia thông
minh, xây dựng lối sống, cách hành xử văn minh của người dân theo những
tiêu chuẩn cao nhất của thế giới.
Nhờ sự lớn mạnh về kinh tế, sự phát triển về khoa học kỹ thuật vượt
bậc, Trung Quốc cũng mạnh dạn, tự tin và quyết đoán trong chi tiêu quốc
phòng, trong hành xử với láng giềng và trong quan hệ quốc tế cho phù hợp
với vị thế mới của mình. Đáng chú ý là Trung Quốc thực hiện cùng lúc
hai chiến lược lớn, đầy tham vọng là trở thành cường quốc số một thế
giới về công nghệ vào năm 2025 và chiến lược Vành đai, Con đường (BRI)
nhằm tạo ra một hệ thống riêng, trong đó Trung Quốc có vai trò chi phối.
Chiến lược Vành đai, Con đường nếu được thực thi đầy đủ sẽ giúp thúc
đẩy 6 kết nối chặt chẽ về đường không, đường biển, đường bộ, đường sắt,
kết nối về mạng lưới viễn thông, kết nối về dịch vụ tài chính giữa Trung
Quốc và khoảng 80 quốc gia trên thế giới, kéo dài từ Bắc Á qua Đông Nam
Á, Nam Á, Trung Đông, châu Phi, một phần Tây và Đông Âu, Nga và Trung
Á, những nước chiếm khoảng 1/2 dân số, 1/3 tổng GDP và 1/4 tổng thương
mại thế giới. Cùng với BRI, Trung Quốc liên tiếp cho ra đời Ngân hàng
Phát triển Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) củng cố và mở rộng vai trò của Tổ
chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Nhóm BRICS gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung
Quốc và Nam Phi…
Dưới góc nhìn của Trump và Chính quyền mới ở Mỹ, sự vươn lên của
Trung Quốc và cách thức Trung Quốc thiết lập một hệ thống riêng không
khác gì cách thức Mỹ từng làm trước đây khi Thế chiến II kết thúc để xác
lập và củng cố vị trí siêu cường lâu dài sau đó. Và đây là điều không
thể chấp nhận được với Trump cũng như bất kỳ chính quyền nào của Mỹ
trước đó.
Tuy nhiên, trong khi các vị Tổng thống tiền nhiệm hoặc né tránh, hoặc
không có một chiến lược rõ ràng rồi sau đó đối phó với Trung Quốc một
cách nửa vời thì chiến lược của Trump lại hết sức rõ ràng với hai bước
song song: (i) Đối đầu trực diện, tìm cách làm suy yếu đối phương về mọi
mặt; và (ii) “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” (Make America Great
Again) thông qua việc kiên trì thực hiện khẩu hiệu tranh cử “Nước Mỹ
trên hết” (America First).
Thực chất của chiến lược này là tạo khoảng cách “an toàn” giữa Mỹ và
đối thủ tiềm tàng đang bám ngay sát nách, khiến đối thủ không đủ sức
mạnh và khả năng để tranh chấp hay thách thức vị trí số một của Mỹ một
cách hiệu quả.
Làm suy yếu đối thủ tiềm tàng về mọi mặt
Đối với Chính quyền Trump, “mối đe dọa” lớn nhất, trực tiếp nhất và
“nguy hiểm” nhất hiện nay đối với vị trí siêu cường và hệ thống quốc tế
do Mỹ đóng vai trò chủ đạo không còn là chủ nghĩa khủng bố hay mối đe
doạ từ Nga mà là từ Trung Quốc và điều này được nêu rõ trong Chiến lược
an ninh quốc gia mới công bố đầu năm 2018. Thách thức này lớn hơn hẳn so
với tất cả các thách thức mà Mỹ từng phải đương đầu từ sau Thế chiến II
đến nay.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mối đe dọa của Liên Xô chủ yếu từ góc
độ an ninh và quân sự chứ chưa bao giờ là thách thức kinh tế. Còn Nhật,
thì chỉ tạo ra thách thức kinh tế, thương mại đối với Mỹ trong một thời
gian ngắn chứ còn xét về các khía cạnh khác như dân số, chiến lược hay ý
thức hệ thì Nhật lại không hề có tham vọng thách thức hay soán ngôi Mỹ.
Trái lại, trong các cường quốc lớn trên thế giới hiện nay, chỉ duy
nhất Trung Quốc vừa có sức mạnh kinh tế, lẫn sức mạnh quân sự với kho vũ
khí hạt nhân hùng hậu, có dân số đông nhất thế giới, có lãnh thổ đủ
rộng, có ý thức hệ khác biệt, hơn nữa Trung Quốc là cường quốc đang trỗi
dậy mạnh mẽ và có lẽ hiện là cường quốc duy nhất, ngoài Mỹ, có tham
vọng trở thành cường quốc số một thế giới.
Trong 500 năm qua, lịch sử thể giới đã chứng kiến 16 cuộc đối đầu
giữa một cường quốc đã được thiết lập và một cường quốc đang trỗi dậy và
tìm cách soán ngôi, trong đó 12 cuộc đối đầu kết thúc bằng chiến tranh.
Thực ra, ngay từ cách đây ba năm, tác giả của bài viết này cũng đã từng
đưa ra cảnh báo về “bẫy Thucydides” và cuộc xung đột “định mệnh”, “không lối thoát” giữa Mỹ và Trung Quốc.
Đặt cạnh tranh Trung – Mỹ trong bối cảnh đó thì xung đột thương mại
chỉ là “câu chuyện nhỏ”, còn câu chuyện lớn hơn là sự cạnh tranh chiến
lược, đối đầu trực diện về mọi mặt, trong đó Mỹ là bên đóng vai trò chủ
động.
Vậy tại sao Trump lại chọn cuộc chiến thương mại (trade war) và tại
sao lại vào lúc này? Trước hết đây là thời điểm kinh tế Mỹ đang ở giai
đoạn tốt nhất trong hai thập niên qua, tính từ các góc độ: niềm tin của
người tiêu dùng, giới doanh nghiệp; sự tăng trưởng của thị trường chứng
khoán cao nhất mọi thời đại; tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; tỷ lệ thất
nghiệp thấp kỷ lục (3,7%)… Điều này có được một mặt là do cố gắng của
chính quyền Trump, nhưng cũng có yếu tố may mắn khác là kinh tế Mỹ đang ở
đỉnh cao của chu kỳ tăng trưởng. Trong khi đó , kinh tế Trung Quốc đang
trong giai đoạn điều chỉnh, phát triển chậm lại sau giai đoạn phát
triển quá nóng theo chiều rộng. Điều này có nghĩa Trump đang ở thế
thượng phong để tung các “đòn độc” mà không sợ bị ảnh hưởng nhiều đến
kinh tế Mỹ.
Còn chọn lĩnh vực thương mại thì theo tính toán của chính quyền
Trump, đây là lĩnh vực Trung Quốc dễ tổn thương nhất do cán cân thương
mại hai bên quá chênh lệch: Năm 2017, Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc 130
tỷ USD, còn nhập khẩu khoảng 506 tỷ USD, tức thâm hụt thương mại tới 376
tỷ USD. Trump cho rằng: (i) Là nước chịu thâm hụt thương mại lớn, Mỹ
trong vai người mua mới ở vị trí thượng phong; (ii) Những hàng hóa nhập
khẩu từ Trung Quốc có thể dễ dàng thay thế bằng hàng hóa nhập khẩu từ
các nước khác; (iii) Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn nhất của
Trung Quốc, và thương mại đóng góp tới 1/3 tăng trưởng kinh tế Trung
Quốc.
Tuy nhiên, đích cuối cùng của Trump là đánh vào chuỗi sản xuất, cung
ứng hàng hoá của Trung Quốc, chặn việc tiếp cận công nghệ cao để đi tắt
đón đầu, và buộc Trung Quốc phải mở cửa thị trường, thay đổi cơ cấu kinh
tế theo ý đồ của Mỹ. Nếu chấp nhận, nhiều khả năng kinh tế Trung Quốc
sẽ bị kéo lùi, rơi vào tình trạnh, suy thoái, trì trệ như của Nhật Bản
30 năm trước. Đây là lý do mà Trung Quốc không thể chấp nhận và các cuộc
đàm phán Mỹ-Trung về giải tỏa chiến tranh thương mại Mỹ-Trung cho đến
nay không đạt kết quả.
Có thể dễ dàng nhận thấy, nếu kinh tế Trung Quốc bị kéo lùi lại do hệ
quả của chiến tranh thương mại thì có thể dẫn đến những hệ quả ghê gớm:
thất nghiệp tăng, nguy cơ bất ổn xã hội tăng cao, thị trường chứng
khoán giảm tốc, đồng tiền mất giá, dự trữ ngoại hối sụt giảm, nguồn tiền
đố vào chi tiêu quốc phòng cũng như đầu tư cho chiến lược “vành đai,
con đường” sẽ không còn được dồi dào như trước.
Điều đáng chú ý là ngược lại với dự báo của hầu hết các nhà kinh tế,
Trump càng siết chặt thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào
Mỹ thì kinh tế Mỹ lại càng nhận được tín hiệu tốt chứ không phải theo
chiều ngược lại.
Một tín hiệu nữa không tốt cho Trung Quốc là Bộ trưởng thương mại Mỹ
Wilbur Ross vừa “khoe” đã tìm ra “viên thuốc độc” (poison pill) để “trị”
Trung Quốc, đó là “cấy” vào Hiệp định thương mại USMCA vừa ký giữa Mỹ,
Mexico và Canada (thay cho Hiệp định NAFTA) một điều khoản cho phép hai
nước còn lại có thể huỷ hiệp định 3 bên và ký hiệp định thương mại tự do
song phương nếu một trong ba thành viên USMCA ký hiệp định thương mại
tự do với nước có nền kinh tế “phi thị trường”, hàm ý chỉ Trung Quốc. Bộ
trưởng Ross còn tiết lộ, Mỹ sẽ đưa điều khoản này vào các hiệp định
thương mại tự do đang đàm phán với Nhật Bản và EU, nhằm mục đích gây sức
ép tối đa lên Trung Quốc.
“Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”
Về cách tiếp cận, chính sách kinh tế của Trump sau khi nhậm chức
không khác mấy so với người tiền nhiệm Ronald Reagan cách gần 40 năm
trước với chính sách kinh tế Reaganomics, đó là: Ở trong nước, Reagan
cắt giảm chi tiêu của chính phủ nhằm giảm thâm hụt ngân sách, trong khi
giảm mạnh thuế doanh nghiệp từ 48% xuống còn 34% nhằm khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào nghiên cứu, sản xuất. Còn người dân, thuộc tất cả các
giới được miễn giảm mạnh thuế cá nhân, trong đó giới giàu có, trung
lưu, được hưởng lợi nhất, nhằm khuyến khích tiêu dùng trong nước. Ngoài
ra Reagan còn tìm cách tăng lãi suất đồng USD trong nước rất cao, có lúc
lên tới 21,5% nhằm thu hút tiền từ trong nước Mỹ và từ khắp thế giới
với hai mục tiêu: (i) Tái cấu trúc và hiện đại nước Mỹ; (ii) Đổ tiền vào
cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô.
Trong thời kỳ Reagan, ngoài chuyện củng cố sức mạnh kinh tế, Mỹ còn
“đánh gục” Liên Xô bằng các đòn “hội đồng” như cùng OPEC phối hợp hạ giá
dầu để triệt hạ nền kinh tế Liên Xô vốn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu
dầu, đồng thời buộc Liên Xô phải tham gia vào cuộc chạy đua vũ trang với
Mỹ và cả khối NATO, cũng như gài bẫy để Liên Xô dính vào “cú lừa thế
kỷ” về sáng kiến “Chiến tranh các vì sao” của Mỹ. Điều này đã buộc
Gorbachev phải đi vào hòa dịu, giải trừ quân bị với Mỹ, rồi tiến tới “tự
giải thể” khối quân sự Warsaw Pact, khối kinh tế Comecon giữa Liên Xô
và các nước Đông Âu, cũng như Liên Bang Xô viết trong giai đoạn cuối
những năm 1980, đầu những năm 1990.
Về cơ bản, Trump cũng có cách tiếp cận về kinh tế và quân sự tương tự
Reagan, nhưng có một số điều chỉnh do bối cảnh quốc tế hiện nay, cũng
như tương quan, so sánh sức mạnh tổng thế giữa Mỹ với các đồng minh,
địch thủ cũng có những thay đổi căn bản.
Về kinh tế, với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết” (America First) và cách
làm quyết liệt đi đôi giữa nói và làm, Trump đang tìm cách lấy lại sức
mạnh kinh tế cho nước Mỹ thông qua một loạt biện pháp chính như: (i)
Giảm mạnh thuế doanh nghiệp từ 35% xuống còn 21%; (ii) Giảm đồng loạt
thuế thu nhập cá nhân, với tổng số thuế cắt giảm lên tới 1.500 tỷ USD
trong thời gian tám năm từ 2018-2025: (iii) gỡ bỏ đáng kể các luật lệ,
rào cản đối với doanh nghiệp; (iv) rút khỏi hoặc bỏ qua các hiệp định
thương mại đa phương, đàm phán lại các hiệp định tự do thương mại song
phương, nhấn mạnh đến yếu tố “công bằng”, đảm bảo quyền tiếp cận thị
trường nước ngoài tốt hơn cho hàng hóa Mỹ; (v) Gây sức ép bằng hình thức
thuế quan để ép các công ty Mỹ và công ty nước ngoài chuyển dây chuyền
sản xuất, công nghệ hoặc mở nhà máy trên đất Mỹ.
Với hàng loạt biện pháp mang tính quyết liệt, và phần nào đó khá cực
đoan, Trump đã ghi được bảng thành tích kinh tế khá tốt dẫu mới cầm
quyền chưa được hai năm. Cụ thể là:
– Tỷ lệ thất nghiệp tính đến đầu tháng 10/2018 giảm xuống còn 3,7%, mức thấp nhất trong 50 năm qua.
– Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2017, năm đầu tiên Trump nắm quyền,
là 2,3%, cao hơn rất nhiều so với tốc độ 1,5% năm 2016 trước đó. Con Quý
II, tốc độ tăng trưởng đạt 4,2%, mức cao nhất kể từ năm 2014.
– Lòng tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp hiện ở mức cao nhất tính từ thời điểm năm 2000.
– Chỉ số công nghiệp Dow Jones của thị trường chứng khoán Mỹ hiện vào
khoảng 26.500 điểm, tức cao khoảng 33% so với đỉnh cao 20.000 điểm dưới
thời Obama.
Thành tích kinh tế này trái ngược với đà đi xuống của kinh tế Trung
Quốc, cũng như thực trạng tương đối ảm đạm của hầu hết các nền kinh tế
lớn khác.
Trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng, Trump không chỉ mạnh tay chi tiêu
cho quốc phòng với ngân sách quốc phòng năm 2018 và 2019 lần lượt là 640
tỷ và 716 tỷ USD, tức gấp khoảng 5 lần so với ngân sách quốc phòng lớn
thứ hai thế giới của Trung Quốc. Không chỉ một mình tăng ngân sách quốc
phòng, Trump còn bằng mọi cách gây sức ép buộc các đồng minh chủ chốt
như Hàn Quốc, Nhật, và các nước đồng minh trong NATO tăng ngân sách quốc
phòng để tạo sức mạnh cộng hưởng và đã thành công ở mức độ nhất định
khi một số nước châu Âu thành viên NATO đẩy nhanh mức chi ngân sách quốc
phòng từ mức trên dưới 1% hiện nay lên mức 2% tổng GDP trước năm 2024.
Cách lập luận của Trump rất đơn giản, nhưng hiệu quả: Nếu muốn dựa vào ô
an ninh của Mỹ thì trước hết các đồng minh phải thực sự quan tâm đến
củng cố quốc phòng của mình thông qua việc tăng ngân sách cho lĩnh vực
này. Nếu như đến an ninh của mình mà họ cũng không quan tâm thì cũng
chẳng có lý do để Mỹ phải bận tâm.
Đáng chú ý là cách tiếp cận và tìm cách xích lại gần Nga của chính
quyền Trump. Trong nội bộ Mỹ, không khí và quan hệ thù địch với Nga hiện
khá cao do những cáo buộc Nga can thiệp cuộc bầu cử 2016 để Trump lên
nắm quyền vẫn chưa được giải tỏa. Tuy nhiên, Trump vẫn nhắm đến Nga với
nhiều mục tiêu khác nhau:
Thứ nhất, Trump cho rằng Nga tuy bị suy yếu nhiều, nhưng xét từ góc
độ quân sự, Nga vẫn là cường quốc quân sự duy nhất có thể đưa nước Mỹ
“trở về thời kỳ đồ đá” nếu xảy ra xung đột quân sự. Do đó, để quan hệ
Mỹ-Nga ở tình trạng đối đầu lâu dài sẽ không có lợi.
Thứ hai, việc xích lại gần Nga sẽ làm cho các nước châu Âu thành viên
NATO lo ngại và do vậy không cần gây thêm sức ép cũng buộc họ tự tăng
ngân sách quốc phòng.
Thứ ba, việc đi với Nga còn là cách để Mỹ tạo sức ép tối đa lên Trung
Quốc – quốc gia được xem như địch thủ chiến lược lớn nhất của Mỹ vào
lúc này. Nhìn cách Trump đi với Nga để tạo sức ép lên Trung Quốc lúc này
thấy không khác mấy so với cách mà Mỹ dưới thời Nixon và Kisinger tìm
cách khai thông quan hệ với Trung Quốc trong những năm 1970 để cô lập và
tạo sức ép tối đa lên Liên Xô, để rồi nước này đi vào con đường thỏa
hiệp với Mỹ và tự tan rã vào năm 1991.
Hiện còn quá sớm để đánh giá hết những tác động từ các bước đi của
Trump trong việc củng cố sức mạnh Mỹ. Ngay cả thời Reagan, dù ra khỏi
Chiến tranh Lạnh với tư cách người chiến thắng, nhưng nước Mỹ cũng
“thương tích đầy mình”, chẳng hạn như nợ công cao, sức cạnh tranh của
nền kinh tế suy giảm… Còn Trung Quốc là cường quốc thứ hai, có nhiều sức
mạnh vượt trội chứ không phải là cường quốc chỉ dựa vào sức mạnh quân
sự và lệ thuộc và dầu khí như Liên Xô trước kia. Tuy nhiên, các tác động
của cuộc chiến thương mại này với cả hai, đặc biệt là với Trung Quốc,
với nền kinh tế thế giới và các cấu trúc khu vực và toàn cầu thì ngày
càng rõ nét.
- Cuộc chiến thứ năm: Xây dựng một trật tự quốc tế mới
Hoàn toàn không quá lời khi nói rằng trật tự thế giới hình thành từ
thời hậu Thế chiến II đến nay với các thiết chế trụ cột như Liên Hợp
Quốc, NATO, WTO, IMF, WB, cùng nhiều thoả thuận quốc tế khác… là trật tự
trong đó Mỹ đóng vai trò “Kiến trúc sư trưởng”, là “người khởi xướng”,
và cũng là người được hưởng lợi chính từ trật tự này. Chắc chắn Mỹ sẽ
không có bất cứ vấn đề gì với hệ thống và các thiết chế này chừng nào mà
vai trò và địa vị số 1 thế giới của Mỹ vẫn được duy trì và đảm bảo.
Tuy nhiên, từ đầu những năm 2000 khi Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ đe
dọa vị thế siêu cường số 1 thế giới của Mỹ và đồng thời sức mạnh của Mỹ
suy giảm tương đối so với Trung Quốc và các cường quốc khác thì Trump và
ê-kíp của mình, ngay từ khi bắt đầu tham gia tranh cử Tổng thống, lại
đổ lỗi cho chính hệ thống quốc tế mà Mỹ đã góp tay xây dựng nên là “tội
đồ” của những yếu kém của nước Mỹ. Họ cho rằng đã đến lúc cần phải đặt
lại vấn đề, xem xét lại một cách căn bản toàn bộ hệ thống quốc tế và các
thiết chế cũ xem các thiết chế này có còn phù hợp với lợi ích của Mỹ
nữa hay không, tức còn có giá trị trong việc giúp Mỹ duy trì ngôi vị bá
chủ thế giới của mình. Theo quan điểm của chính quyền Trump, các thiết
chế do chính Mỹ lập ra trước kia chỉ phù hợp với bối cảnh cũ, nhưng nay
các thiết chế này đã đóng xong vai trò lịch sử, không còn phù hợp, thậm
chí đi ngược lại với lợi ích của Mỹ thì Mỹ cần đặt lợi ích quốc gia của
mình lên trên (America First) và mạnh tay “vứt bỏ” các cam kết không cần
thiết.
Ngay từ năm 1987 học giả Mỹ Paul Kennedy đã viết cuốn sách “Sự thăng
trầm của các cường quốc” (The Rise and Fall of the Great Powers) trong
đó cho rằng một trong những nguyên nhân khiến các cường quốc suy vong là
do đế quốc trải rộng và các cường quốc này thực thi các cam kết quốc tế
vượt quá khả năng của mình. Tác giả cũng đưa ra lời cảnh báo để Mỹ
không đi vào con đường tương tự. Cảnh báo này cũng trùng hợp với tư duy
của Trump khi cho rằng các nước khác được hưởng lợi bởi hệ thống quốc tế
hiện nay phải có nghĩa vụ đóng góp nhiều hơn và không có lý gì để Mỹ
phải sử dụng tiền đóng thuế của người dân bảo vệ cho những quốc gia có
mức thu nhập đầu người thậm chí còn cao hơn của nước Mỹ.
Như vậy, có thể thấy Trump thực hiện một chính sách tương đối nhất
quán cả về đối nội, lẫn đối ngoại: Đó là tìm cách làm nước Mỹ mạnh lên
từ bên trong và đặt lợi ích quốc gia lên trên các cam kết quốc tế. Đáng
chú ý là trong quá trình xem xét lại các cam kết quốc tế của Mỹ, Trump
nhận thấy nước Mỹ có quá nhiều cam kết quốc tế “vô bổ”, gây tốn kém
không ít cho ngân sách liên bang.
Việc tấn công tổng lực vào một loạt các thiết chế quốc tế lớn như
Liên hợp quốc, UNESCO; vào các hiệp ước, các thiết chế lâu đời với đồng
minh, láng giềng như NATO, nhóm G-7, NAFTA; vào các thỏa thuận với đối
tác, bạn bè như TPP (chuẩn bị bước vào giai đoạn ký kết)… ngay từ ngày
đầu tiên bước chân vào Nhà Trắng đã biến Trump thành nhà lãnh đạo theo
chủ nghĩa quốc gia nhiệt thành, “kẻ” chủ trương ủng hộ nghĩa biệt lập,
và là một trong những nhà lãnh đạo Mỹ “đáng ghét” nhất trên thế giới.
Tháng 1/2018, Viện thăm dò dư luận Gallup tiến hành khảo sát ý kiến của
người dân 134 nước trên thế giới và kết quả là tỷ lệ trung bình ủng hộ
lãnh đạo Mỹ giảm mạnh từ 48% năm 2016 xuống còn 30% vào 1/2018.
Tuy nhiên, Trump dường như có một mục tiêu và lộ trình được lập trình
từ trước nên tỏ ra không mấy bận tâm vào việc lãnh đạo hay người dân
các nước nghĩ về mình hay nước Mỹ, miễn là việc mình làm phục vụ lợi ích
của nước Mỹ, đặt nước Mỹ lên trên hết (America First). Dù chưa định
hình rõ nét, nhưng có thể thấy sơ bộ một số bước đi chính của Trump
trong việc “xoá bàn cờ làm lại”, đặt ra luật chơi mới với 5 bước đi sau:
Một là, rút nước Mỹ ra khỏi các thiết chế/cam kết quốc tế không phù hợp với lợi ích của nước Mỹ
Rõ nhất trong hai năm đầu tiên cầm quyền là Trump rút khỏi các thoả
thuận “đình đám” như Hiệp định thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP đã
được hoàn tất vào phút chót chỉ chờ được phê chuẩn; cắt đóng góp của Mỹ
và rút khỏi Tổ chức Văn hóa, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp Quốc
UNESCO; Hiệp định chống biến đổi khí hậu; rút khỏi Thoả thuận hạt nhân
P5+1 ký năm 2015 với Iran; Hội đồng nhân quyền… Chính từ các hành động
này nên Trump bị xem là người theo đuổi chủ nghĩa đơn phương, làm cho Mỹ
bị cô lập trên quốc tế, trái với cách tiếp cận đa phương, can dự tích
cực của người tiền nhiệm.
Trong quyết định rút khỏi TPP, chính quyền Trump cho rằng ngành công
nghiệp chế tạo của Mỹ sẽ bị ảnh hưởng và Mỹ sẽ bị mất nhiều việc làm phổ
thông do doanh nghiệp sẽ tìm cách chuyển sản xuất sang những nước thành
viên có lương thấp trong TPP. Còn với Hiệp định chống biến đổi khí hậu,
Trump ngay từ đầu đã cho rằng các bằng chứng khoa học về biến đổi khí
hậu là lòe bịp (a hoax) và không đáng tin cậy, và việc thực hiện các cam
của Thỏa thuận chống biến đổi khí hậu vừa gây tốn kém cho doanh nghiệp,
vừa làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ. Với Iran, Mỹ cho rằng
thỏa thuận P5+1 chỉ giúp làm chậm lại chứ không thể giúp cản bước Iran
nghiên cứu, sản xuất vũ khí hạt nhân. Đáng chú ý, việc áp đặt cấm vận
xuất khẩu dầu của Iran còn nhằm vào Trung Quốc nước đầu tư tới 106 tỷ
USD vào ngành dầu khí Iran, cũng như giúp ngành xuất khẩu dầu và khí hoá
lỏng của Mỹ “cất cánh” sau khi Mỹ có đột biến về tăng sản lượng dầu đá
phiến và hoàn tất việc lắp đặt đường ống dẫn dầu Keystone nối từ Alberta
(Canada) tới tận Cảng Arthur (Texas) miền Nam nước Mỹ.
Hai là, gây sức ép, đàm phán lại các hiệp định/thoả thuận/định chế cũ
Đáng chú ý nhất là thành công của Trump trong việc đàm phán lại Hiệp
định thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA với tên gọi mới là Hiệp định USMCA
giữa Mỹ, Mexico và Canada ký ngày 30/9/2018 vừa qua. Các cuộc đàm phán
để đi đến Hiệp định mới USMCA này cho thấy Trump quả là một cao thủ về
đàm phán quốc tế. Trước hết Trump không tìm cách đàm phán ba bên đồng
thời, mà tiến hành hai cuộc đàm phán riêng rẽ với Mexico và Canada,
trong đó nhằm vào Mexico là mắt xích yếu nhất. Đồng thời trong suốt quá
trình đàm phán Mỹ không ngừng gây sức ép, công kích công khai lãnh đạo
Canada. Việc đạt được thỏa thuận trước với Mexico đã gây sức ép rất lớn
và đặt Canada vào thế phải kết thúc đàm phán với điều kiện của Trump nếu
không sẽ bị gạt ra rìa.
Với lợi thế có được trong tay USMCA, các bước tiếp theo của Mỹ có thể
nhìn thấy trước là Mỹ sẽ tiến hành hai cuộc đám phán song phương đồng
thời với Nhật và EU, trong đó Mỹ sẽ tìm cách cài tiếp “viên thuốc độc”,
tức tìm cách ngăn không để cho hai nền kinh tế lớn này ký thỏa thuận
thương mại tự do với Trung Quốc. Sau khi có được thoả thuận thương mại
với Nhật Bản và EU, bước tiếp theo là Mỹ, lúc này đã ở thế thượng phong,
gây tiếp sức ép lên Trung Quốc, buộc nước này phải mở cửa và cải cách
theo các điều kiện do Mỹ đặt ra. Đối với WTO, nếu không đáp ứng các điều
kiện do Mỹ đặt ra, thậm chí không loại trừ khả năng Mỹ sẽ vận động
Nhật, EU và các nước khác lập ra chế định mới thay thế cho tổ chức
thương mại lớn nhất thế giới này.
Trong các vấn đề quân sự hay quan hệ với đồng minh trong NATO, G-7
Trump cũng tỏ ra “thờ ơ” bề ngoài, nói lấp lửng hay nước đôi vê các cam
kết bảo vệ đồng minh của Mỹ. Mục đích của Trump là gây sức ép buộc đồng
minh tăng ngân sách quốc phòng, chia sẻ nhiều hơn gánh nặng và trách
nhiệm an ninh quốc tế với Mỹ, song song với việc ép các đồng” tự nguyện”
mở cửa thị trường, thực thi các biện pháp nhằm giúp Mỹ giảm thâm hụt
thương mại.
Ba là, cắt giảm cam kết tài chính, gây sức ép cải tổ các định chế quan trọng
Một trong những tổ chức quốc tế lớn nhưng nhận nhiều chỉ trích nhất
của chính quyền Trump về sự quan liêu, quản lý yếu kém… là Liên Hợp Quốc
(LHQ). Mỹ sở dĩ có tiếng nói quan trọng ở LHQ vì Mỹ là quốc gia đóng
góp ngân sách lớn nhất, lên tới 22% tổng ngân sách hàng năm cho tổ chức
này (5,6 tỷ USD năm 2017) và là thành viên của Hội đồng Bảo an.
Sự bất bình của Mỹ cũng có lý do riêng. Tuy đóng góp nhiều cho ngân
sách của LHQ song ảnh hưởng của Mỹ tại đây lại không như Mỹ mong muốn,
đặc biệt trong các cuộc bỏ phiếu liên quan đến tranh chấp
Israel-Palestine. Ngoài ra, Mỹ thấy nhiều nước không có sự đóng góp
tương xứng vào ngân sách LHQ so với tỷ lệ GDP của họ trong tổng GDP toàn
cầu. Song song với sức ép về chính sách kêu gọi LHQ cải tổ trong 3
lĩnh vực là Quản lý, An ninh và Phát triển Mỹ cũng đồng thời tuyên bố
cắt giảm đóng góp lên tới 5% tổng ngân sách của LHQ (285 triệu USD), chủ
yếu dành cho lĩnh vực gìn giữ hòa bình bắt đầu từ năm 2018.
Bốn là, tấn công trực diện các thiết chế mới ra đời của đối phương
Đối với Mỹ hiện nay, Chiến lược Vành đai, Con đường (BRI) và Ngân
hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) của Trung Quốc là những thiết
chế tạo ra các thách thức đối với Mỹ về nhiều mặt. Với BRI, Mỹ lo ngại
sự hình thành của một thiết chế mới, một vành đai phát triển quốc tế mới
không theo các chuẩn mực do Mỹ đặt ra, giảm lệ thuộc vào Mỹ và phương
Tây, trong khi lại lệ thuộc vào Trung Quốc về đầu tư, công nghệ…
Với AIIB, Mỹ lo ngại nhất về (i) sự thiếu khách quan trong các quyết
định cho vay, cho rằng AIIB sẽ thiên vị, chỉ cung cấp tín dụng cho những
nước có quan hệ tốt với Bắc Kinh; (ii) Khả năng quản trị rủi ro không
tốt, vượt quá khả năng trả nợ của những nước đi vay có thể khiến họ hoặc
rơi vào tình trạng phá sản hoặc bị lệ thuộc về tài chính vào Trung
Quốc; (iii) Có thể giúp nước đi vay đầu tư tăng trưởng tốt trong ngắn
hạn, nhưng lại thiếu cơ sở cho phát triển ổn định và bền vững trong dài
hạn.
Năm là, lập ra các thiết chế, các định chế mới
Các đề nghị lập thiết chế mới hiện nay chưa nhiều, mới thấy rõ nhất
là sáng kiến về “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” thay thế cho
Chiến lược tái cân bằng của Mỹ ở Đông Nam Á. Có thể do chính quyền Trump
còn đang bận tâm vào các vấn đề nội bộ, hoặc Mỹ cho rằng có thể tận
dụng một số cơ chế cũ nhưng có những điều chỉnh cho phù hợp với tình
hình mới cũng như lợi ích của Mỹ.
Dù mới chỉ ở dạng ý tưởng và còn thiếu nhiều chi tiết, nhưng “Chiến
lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” của Mỹ hiện vấp phải nhiều phản ứng
trái chiều, đặc biệt từ Nga và Trung Quốc, những nước cho rằng trong khu
vực hiện đang có nhiều cơ chế hữu dụng như EAS, ARF, ADMM+… để xử lý
các vấn đề khu vực và không nhất thiết phải lập ra các cơ chế mới. Điều
này cho thấy cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trên phạm vi khu
vực và toàn cầu đang ngày một rõ nét và có thể đưa quan hệ quốc tế đến
chỗ chia rẽ, phân cực như trong thời kỳ Chiến tranh lạnh trước kia.
Nhìn tổng thể, cuộc chiến của Trump để xây dựng một trật tự quốc tế
mới lần này chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều lần so với công việc Mỹ đã
làm cách đây trên 70 năm. Khi đó Mỹ ở thế thượng phong với sức mạnh tổng
hợp vượt trội so với cả đồng minh lẫn đối thủ. Còn hiện tại thì thế và
lực của Mỹ, tuy mạnh nhưng không còn ở thế áp đảo, khuynh loát các quốc
gia khác. Ngoài ra, các đối thủ của Mỹ cũng sẽ không ngồi yên khoanh tay
chịu trận.
Và cũng không khó để nhận ra nhiều nước bắt đầu toan tính, tìm bước
đi, lối thoát cho mình nhằm tránh rơi vào thế kẹt trong bối cảnh cuộc
đối đầu, cạnh tranh địa-chiến lược Mỹ-Trung và “bóng ma” cuộc Chiến
tranh Lạnh mới 2.0 với các vòng xoáy bất ổn, chia rẽ và phân cực đang
ngày một hiện rõ./.
TS Hoàng Anh Tuấn là cựu Giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược
Ngoại giao, Học viện Ngoại giao Việt Nam. Bài viết thể hiện quan điểm cá
nhân của tác giả.
Nguồnhttp://nghiencuuquocte.org