Tác giả: Hồ Anh Hải
Vào ngày 02/05/2014, Trung Quốc (TQ) đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào
vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam và tiến hành khoan thăm
dò dầu khí một cách phi pháp. Chính phủ Việt Nam đã mạnh mẽ tố cáo hành
động này của Trung Quốc. Hành động ngang ngược của Trung Quốc cũng đã
gây ra sự phản đối từ cộng đồng quốc tế. Đến ngày 16/07, Trung Quốc rút
giàn khoan 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, sớm 1 tháng
so với kế hoạch ban đầu. Sự kiện này để lại cho chúng ta những bài học
hữu ích đến nay vẫn cần ôn lại.
Mặc dù trắng trợn vi phạm chủ quyền của Việt Nam nhưng Trung Quốc
luôn tuyên truyền rằng Việt Nam mới là kẻ quấy rối họ thực thi chủ
quyền. Ngày 19/06/2014, Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của Nhà nước Trung Quốc đăng bài “Trung Quốc khuyên Việt Nam: Kẻ hư hỏng nên tỉnh ngộ trở về” (TQ phụng khuyên Việt Nam “Lãng tử hồi đầu”).[1] Tác giả bài báo lời lẽ xách mé này là bà Tô Hiểu Huy (苏晓晖 Su Xiao Hui), Phó Chủ nhiệm Ban Nghiên cứu Chiến lược quốc tế thuộc Viện Nghiên cứu các vấn đề Quốc tế của Trung Quốc.
Xin đọc một số câu trong bài báo này (chúng tôi in đậm những chỗ cần chú ý):
Trong tình hình Việt Nam mạnh mẽ quấy nhiễu công việc bình thường của công ty TQ tại quần đảo Tây Sa [Việt Nam gọi là Hoàng Sa], gây
nên tình thế căng thẳng liên tục nâng cấp, Ủy viên Quốc vụ TQ Dương
Khiết Trì đã đến Việt Nam hội đàm với Trưởng đoàn Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác
song phương TQ-VN. Trong hội đàm, hai bên đều tỏ ý coi trọng mối quan
hệ song phương và ý muốn quản lý kiểm soát tình hình trên biển; tình thế
căng thẳng suýt bùng nổ đã dần dần được hòa hoãn…
Chuyến đi của Dương Khiết Trì cho thấy “TQ một lần nữa tạo cơ hội cho Việt Nam ghìm ngựa trước vực thẳm.
Trước đó TQ đã nhiều lần nghiêm chỉnh tuyên bố quần đảo Tây Sa là lãnh
thổ vốn có của TQ, không tồn tại bất cứ tranh chấp nào, và yêu cầu Việt
Nam ngừng quấy rối tác nghiệp [thăm dò dầu khí, xây đắp đảo…] của
phía TQ… Trong hội đàm, Dương Khiết Trì một lần nữa nói rõ giới hạn
cuối cùng đối với Việt Nam, TQ mong muốn Việt Nam từ bỏ dã tâm không
thiết thực, ngừng tạo ra các tranh chấp mới, quản lý được bất đồng,
tránh gây thiệt hại lớn hơn cho mối quan hệ song phương. TQ bỏ
ra rất nhiều công sức khuyên Việt Nam “Lãng tử Hồi đầu”, nhưng Việt Nam
có thể đi cùng TQ hay không thì vẫn là vấn đề chưa biết…”
Câu cuối cùng viết mập mờ, không rõ đây là lời Dương Khiết Trì hay
lời Tô Hiểu Huy; nhưng đã đăng trên “Nhân dân Nhật báo” thì chắc chắn là
quan điểm của Nhà nước TQ.
Chữ Hán “Lãng tử” là đứa con/em hư hỏng, bỏ nhà đi lêu lổng. “Lãng tử
hồi đầu” là đứa con/em hư hỏng [đã đến lúc] ăn năn hối lỗi, cải tà quy
chính, trở về với gia đình.
Trước thái độ nước lớn kẻ cả nói trên của TQ, chúng ta cần trả lời: Việt
Nam đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ nước mình là hoàn toàn chính
đáng, không có gì phải ăn năn hối cải và chẳng có cái “gia đình” nào ở
TQ để chúng ta “trở về” cả.
Tại TQ lâu nay vẫn lưu hành một quan điểm lịch sử cho rằng Việt Nam
vốn là đất của TQ, về sau lợi dụng cơ hội nội bộ TQ loạn lạc mà tách ra
thành một quốc gia riêng; dân tộc Việt Nam vốn là một trong các tộc
người bị tộc Hoa Hạ (từ triều Hán trở đi gọi là tộc Hán) ở Trung nguyên
gọi vơ đũa cả nắm là “Bách Việt”, như Mân Việt, Ngô Việt, Lạc Việt…;
trong khi các tộc này đều phục tùng sự “chinh phục” [thực ra là xâm lược
và cai trị, cướp bóc, đồng hóa] của tộc Hoa Hạ thì tộc Việt Nam lại
cứng đầu cứng cổ tách ra khỏi “gia đình Bách Việt”, độc lập với TQ; nay
đã đến lúc Việt Nam – đứa con hư hỏng bỏ nhà ra đi này nên sớm hối cải,
trở về với “gia đình” [nói cách khác, trở thành nước chư hầu của TQ].
Không ít dân mạng TQ tuyên truyền quan điểm nói người Việt Nam vốn là
người TQ, sống trên đất TQ, có vương triều đầu tiên là triều Triệu Đà
nước Nam Việt, hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân của nước này chính là miền
bắc Việt Nam; về sau Việt Nam giành độc lập, tách ra thành một quốc gia
nhưng vẫn triều cống TQ, nhận làm một “phiên quốc” [nước phên giậu] của
TQ, cho tới khi bị Pháp chiếm (1884). Sử chính thống Việt Nam không coi
nhà Triệu là vương triều của mình, chứng tỏ họ không còn coi TQ là “tôn
chủ quốc” [chính quốc, nước mẹ] của mình, như thế là vong ân phụ nghĩa….
Các quan điểm kể trên hoàn toàn trái với sự thật lịch sử, cần dứt
khoát bác bỏ. Dưới đây xin trình bày quan điểm của chúng tôi về các vấn
đề đó.
1- Lãnh thổ Việt Nam không phải là đất của Trung Quốc.
Sau khi đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước nhà, năm 1428 Lê Lợi
ra “Bình Ngô Đại cáo” tuyên bố: “Như nước Đại Việt ta thủa trước, Vốn
xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam
cũng khác…”
Đúng là “bờ cõi đã chia”: Mảnh đất chữ S này trước đời Tần là một
vùng đất riêng biệt, người phương bắc chưa hề đặt chân tới. Thiên nhiên
rào chắn mảnh đất này cả bốn phía: phía tây có dãy Trường Sơn ngăn cách;
phía đông và nam được biển bọc kín, phía bắc có dãy Thập vạn đại sơn
hiểm trở. Việt Nam cách rất xa vùng Trung nguyên TQ – nơi sinh ra tộc
Hoa Hạ và từ đời Tần xuất hiện đế chế Trung Hoa cùng chủ nghĩa Đại Hán.
Chỉ sau khi bị nhà Tần chiếm (214 TCN), nước ta bắt đầu thời kỳ Bắc
thuộc và từ đó mới bắt đầu tiếp xúc với nền văn minh Trung Hoa. Đất nước
này dù bị TQ cai trị hơn 1000 năm và về sau bị Pháp cai trị 80 năm
nhưng vẫn là đất của dân tộc Việt Nam. Nếu nói lãnh thổ nào từng bị TQ
chiếm đóng đều là lãnh thổ TQ thì cả châu Âu và TQ đều là lãnh thổ của
Mông Cổ chăng?
Quá trình bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán khởi đầu bằng việc Tần
Thủy Hoàng “chinh phục, thống nhất 6 nước”, thực chất là xâm chiếm lãnh
thổ 6 nước Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề trong các năm 230-221 TCN nhằm
biến nước Tần thành một đế quốc lớn mạnh. Quân Tần giết người như giết
ngóe, dã man tới mức dù nước Hàn đã đầu hàng nhưng chúng vẫn “Ngũ mã
phanh thây” vua nước Hàn và xử chém hàng trăm nghìn tù binh nước Triệu;
dân thường bị giết nhiều vô kể. Thủ đoạn tàn ác này khiến các nước xung
quanh sợ hãi, nhanh chóng đầu hàng khi bị quân nhà Tần xâm chiếm.
Năm 219 TCN, nhà Tần cho 50 vạn quân đánh xuống phía nam Trường
Giang, quê hương của các bộ lạc “Bách Việt”, trong đó có vùng Lĩnh Nam ở
phía nam dãy Ngũ Lĩnh. Cuộc chiến này ác liệt hơn cuộc chiến chiếm 6
nước trước đó, nhất là khi gặp sự chống cự của người Lạc Việt ở Quảng
Tây. Đến năm 214 TCN nhà Tần mới chiếm được Lĩnh Nam sau khi mất hơn 10
vạn lính. Từ con số này có thể suy ra bao nhiêu vạn dân Bách Việt từng
chết dưới tay quân Tần. Một số bộ lạc Bách Việt phải di tản, nhờ thế tồn
tại và trở thành các dân tộc thiểu số ngày nay ở TQ; ví dụ người Lạc
Việt, nay là dân tộc Tráng. Các bộ tộc ở lại dần dần bị tiêu diệt hoặc
đồng hóa.
Hầu hết các vương triều TQ đều ra sức tăng số dân nước mình bằng chủ
trương giết dân ở các vùng chiếm được – chủ yếu giết đàn ông và đưa
nhiều người Hán đến định cư. Mấy nghìn năm qua chúng liên tục xâm chiếm
các vùng xung quanh và đồng hoá các dân tộc thua trận, biến họ thành
người Hán.[2]
Kết quả là từ một nước Tần ở hai tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc hơn 2200 năm
trước, hiện nay tộc Hán chiếm 92% trong số hơn 1,3 tỉ người sống trên
lục địa rộng 9,6 triệu km2 và còn muốn chiếm 90% diện tích biển Đông.
Ngày nay người TQ tự hào với công trạng ấy, cho dù tổ tiên họ phải trả
giá bằng hàng trăm triệu sinh mạng – điều này cho thấy tư tưởng nước lớn
“Đại nhất thống” đã ăn sâu vào đầu óc họ như thế nào.
2- Người Việt Nam không phải là người Trung Quốc và không thuộc cộng đồng Bách Việt
Xét về mặt ngôn ngữ, tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt các dân tộc, thời
cổ, tổ tiên ta ở xa cách TQ cho nên tiếng Việt Nam thuộc ngữ hệ
Môn-Khmer, khác hẳn tiếng Hán và tiếng của các tộc Bách Việt đều thuộc
ngữ hệ Hán-Tạng.
Tiếng Việt có những âm và thanh điệu không có trong tiếng Hán, như âm b, đ, v, g, nh, ng, ư,… , thanh điệu nặng và ngã.
Tiếng Việt có số lượng âm tiết (syllable) nhiều gấp khoảng 15 lần (ngót 18 nghìn so với hơn 1000 âm tiết);[3] nghĩa là có hơn chục nghìn âm tiết mà tiếng Hán không có, người Hán không phát âm được. Vì thế chữ Hán không thể ghi được tiếng Việt và tiếng Việt không thể nào là một phương ngữ của Hán ngữ. Mặc
dù Việt ngữ dùng chữ Hán hai nghìn năm nhưng người TQ không thể nghe
hiểu bất kỳ bài văn thơ chữ Hán nào đọc bằng tiếng Việt.
Hán ngữ nghèo âm tiết nên chỉ có thể dùng chữ viết loại ghi ý (ví dụ
chữ Hán), mà không thể dùng chữ viết loại ghi âm như chữ Quốc ngữ Việt
Nam.
Các tộc Bách Việt như Mân Việt, Ngô Việt, Vu Việt, Lạc Việt… đều nói
một trong các thứ tiếng địa phương (phương ngữ) của Hán ngữ, thuộc ngữ
hệ Hán-Tạng, và chữ Hán ghi được các phương ngữ đó.
Tháng 11/2016, TQ công bố kết quả công trình “Nghiên cứu Phương quốc
Lạc Việt” cấp nhà nước, thực hiện trong 8 năm, do sử gia nổi tiếng TQ
Lương Đình Vọng chủ trì, xác định 8 dân tộc thuộc ngữ tộc Tráng-Đồng
[Zhuangdong] là Tráng, Đồng, Bố Y, Lê, Thái, Thủy, Mục Lão và Mao Nam có
tổ tiên chung là người Lạc Việt; trong đó tộc Tráng (Zhuangzu, chữ
Tráng viết là Bouxcuengh) đông nhất, là hậu duệ chính gốc của người Lạc
Việt;[4] tiếng nói của họ, tức tiếng Lạc Việt, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng, khác với ngữ hệ của tiếng Việt Nam.
Thời xưa một số người Tráng di cư đến Việt Nam làm thành dân tộc
Tày-Nùng, hiện có 2,7 triệu người. Tiếng Tày-Nùng chính là tiếng Tráng,
người Kinh nghe không hiểu.
Về ngữ pháp, một khác biệt rất rõ là tiếng Việt đặt tính ngữ sau danh từ, ngược với Hán ngữ, ta gọi là nói ngược. Ví
dụ “Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc” trong Hán ngữ phải đặt tính ngữ
“Nhân dân Trung Quốc” lên trước “Ngân hàng”, thành “Zhongguo Renmin
Yinhang”. Tráng ngữ cũng viết “Cunghgoz Yinzminz Yinzhangz” theo thứ tự
hệt như Hán ngữ. Trong tiếng Việt, trạng ngữ chỉ thời gian có thể đặt
trước hoặc sau chủ ngữ nhưng trong tiếng Hán bao giờ cũng phải đặt trước
chủ ngữ.
Lẽ thường các dân tộc ở gần nhau đều có ngôn ngữ giống nhau. Sự khác
biệt ngôn ngữ quá lớn kể trên giữa tiếng Việt với tiếng của các tộc Bách
Việt là bằng chứng rõ nhất cho thấy dân tộc ta thời xưa không ở gần
cộng đồng các tộc Bách Việt.
Dĩ nhiên, sau hơn 10 thế kỷ là quận huyện của TQ và gần 2000 năm dùng
chữ Hán, ngôn ngữ Việt chịu ảnh hưởng lớn của Hán ngữ, khoảng 60% từ
vựng tiếng Việt có gốc chữ Hán.
Xét về thể hình, người Việt Nam thuộc chủng
người thấp nhỏ, phụ nữ thanh mảnh, khác với người Bách Việt ở Quảng
Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang…Một nghiên cứu mới đây của các
nhà khoa học nước ta cho thấy hệ gene của người Việt Nam khác rất xa hệ
gene của người Hán.[5]
Xét về văn hóa, mặc dù chịu ảnh hưởng lớn
của văn hóa Hán sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhưng nền văn hóa của dân
tộc ta vẫn có nhiều điểm khác. Nổi bật nhất là sự khác biệt về văn hóa chính trị: Người
Việt Nam coi độc lập dân tộc là lẽ sống cao nhất; dù bị nước ngoài
chiếm đóng cai trị nhưng dân tộc ta xưa nay chưa hề ngừng đấu tranh
giành độc lập và chống đồng hóa. Độc lập dân tộc đã trở thành đòi hỏi
cao nhất, trên hết; đối với người Việt Nam “Không có gì quý hơn độc lập tự do” (lời Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, người Việt Nam đều coi các vương triều
TQ cai trị mình là chính quyền của kẻ địch, và không ngừng chống lại
chúng. Quan điểm đó hoàn toàn chính đáng. Triệu Đà người Hán quê Hà Bắc,
xa Việt Nam hàng nghìn dặm vô cớ đem quân đánh chiếm nước ta đang sống
trong hòa bình, gây ra cảnh chết chóc tàn phá đau thương, rõ ràng là kẻ
xâm lược. Triều đình nước Nam Việt của Triệu Đà đóng đô tại Phiên Ngung,
toàn bộ quan lại, quân đội là người TQ, quan quân cai trị Việt Nam cũng
đều là người TQ; chúng chỉ lo áp bức bóc lột dân ta, sao có thể coi nhà
Triệu là vương triều của Việt Nam?
Với quan điểm trên, tổ tiên ta, kể cả phụ nữ, đã không ngừng nổi dậy
đánh đuổi giặc xâm lược: Hai Bà Trưng (năm 40), Bà Triệu (năm 248), …
Khúc Thừa Dụ (năm 905) và kết thúc bằng chiến thắng giành độc lập của
Ngô Quyền (năm 938).
Có sử gia TQ nói Mã Viện diệt khởi nghĩa Hai Bà Trưng là “công việc
nội bộ” TQ, tương tự việc đàn áp mọi cuộc nổi dậy khác của nông dân TQ,
không thể gọi là xâm lược.[6]
Thật vô lý. Dân tộc ta đang sống yên lành bỗng dưng bị bọn người phương
bắc vô cớ đánh chiếm nước ta rồi sáp nhập làm quận huyện của chúng. Hai
Bà Trưng đánh đuổi giặc chiếm đóng là chính nghĩa. Mã Viện đánh nước
ta, rõ ràng là xâm lược.
Đặc biệt hơn cả là, dù bị chính quyền cai trị ép phải học và dùng chữ
Hán suốt cả nghìn năm nhưng do hiểu rõ nguy cơ để mất tiếng mẹ đẻ thì
sẽ để mất nòi giống dân tộc mình nên tổ tiên ta đã tìm mọi cách giữ
nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ cùng nền văn hóa tiếng Việt, nhờ thế dân tộc ta
không bị Hán hóa. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.
Thời thuộc Pháp, dân ta cũng đấu tranh thắng lợi đòi thực dân Pháp bãi
bỏ chế độ buộc người Việt học tiếng Pháp từ bậc tiểu học; nhờ vậy sau 80
năm Pháp thuộc dân ta vẫn không nói tiếng Pháp như các thuộc địa Pháp
khác.
Nhưng các tộc Bách Việt như Ngô Việt, Mân Việt…đều khá dễ dàng chấp
nhận sự chiếm đóng, cai trị và đồng hóa của nhà Tần. Tộc Lạc Việt có
đánh trả và lánh về vùng núi Quảng Tây, nhờ vậy giữ được tiếng nói;
nhưng sau đó họ không dám nổi dậy đánh đuổi quân xâm lược. Ngày nay họ
trở thành một dân tộc thiểu số ở TQ, sống trong Khu Tự trị dân tộc
Tráng, không được là một quốc gia độc lập như Việt Nam.
Ngay cả dân tộc Hán đông người nhất thế giới khi bị ngoại tộc (Mông
tộc, Mãn tộc…) xâm lược cũng chịu để cho kẻ địch cai trị hàng trăm
năm mà không vùng lên đánh đuổi; giới quan lại người Hán ngoan ngoãn làm
tôi tớ cho vua chúa ngoại tộc, giúp chúng áp bức bóc lột đồng bào mình,
ép họ phải theo văn hóa ngoại tộc. Thời Mãn Thanh, đàn ông TQ phải để
đuôi sam theo kiểu tóc tộc Mãn, các triều thần phải khúm núm tự xưng là
“nô tài” trước Hoàng đế người Mãn. Chính quyền TQ với đội ngũ quan lại
cơ sở hầu hết là người Hán thời kỳ đầu còn bỏ chữ Hán, dùng chữ Mãn, và
từng chặt đầu hàng triệu đàn ông TQ không chịu để đuôi sam. Hán tộc và
các tộc Bách Việt đều coi nhà Nguyên và nhà Thanh là vương triều của
mình, tuy thực ra đó chỉ là vương triều thực dân; thậm chí coi hoàng đế
Thành Cát Tư Hãn của đế quốc Mông Cổ là anh hùng, coi Khang Hy là minh
quân của người TQ…
Tóm lại, từ những khác biệt nhiều mặt kể trên, có thể khẳng định:
Người Việt Nam thời cổ không phải là người di cư từ phương bắc xuống;
trước khi nhà Tần xâm lược Việt Nam, dân ta không có quan hệ với các tộc
người ở bên kia biên giới phía bắc. Dân tộc ta không phải là thành viên
của cộng đồng Bách Việt. Tổ tiên ta chưa bao giờ ngừng đấu tranh giành
độc lập dân tộc và trên thực tế đã giành được những thắng lợi vĩ đại,
giữ được nguyên vẹn nòi giống và lãnh thổ. Chúng ta kiên quyết giữ vững
truyền thống đó, không cho phép bất cứ kẻ nào xâm phạm đất nước này.
——————-
[1] 党报:中国再给越南机会奉劝浪子早回头
(2014.6.19 人民日报海外版 ) Báo Đảng: TQ một lần nữa cho VN cơ hội, hết lòng
khuyên kẻ hư hỏng VN sớm tỉnh ngộ trở về (Nhân dân nhật báo, bản phát
hành ra nước ngoài)
[2] Tộc người Hán: Một bản sắc được kiến tạo, Tia Sáng, 21/06/2019.
[3] Lạm bàn về tính ghi ý của chữ Hán (Nhân đọc “Nghiên cứu chữ Hán hiện đại của thế kỷ XX”), Tia Sáng, 26/06/2019.
[4] 《骆越方国研究》发布 (2016.11.07 人民网-文化频道) Công bố “Nghiên cứu Phương quốc Lạc Việt”
[5] Công bố nghiên cứu lớn nhất về bộ gen của người Việt, Nhân Dân, 16/07/2019.
[6] “越南反华情结:教科书写“越南史就是中国侵略史” Tình cảm chống TQ của VN: Sách giáo khoa VN viết “Lịch sử VN là lịch sử TQ xâm lược”
THeo nguồn http://nghiencuuquocte.org